Thursday, July 31, 2014

Dấu hiệu nhận biết lợn bị dịch tả

Các triệu chứng và bệnh tích đặc trưng khi lợn mắc phải dịch tả mà bà con nông dân cần chú ý.

Trong số báo trước, chúng tôi đã thông tin về các tác nhân gây bệnh dịch tả lợn, nguồn bệnh và quá trình lây.

Số báo kỳ này chúng tôi tiếp tục thông tin về triệu chứng và bệnh tích khi lợn mắc phải dịch tả, giúp người chăn nuôi có thể nhận biết và chủ động trong chăn nuôi.

Đàn lợn bị bệnh dịch tả.

Về triệu chứng, thời gian nung bệnh ở vật nuôi từ 3-7 ngày và bệnh có thể xuất hiện ở 1 trong 3 thể là thể quá cấp tính, thể cấp tính và thể mãn tính.

Thể quá cấp tính còn gọi là bệnh dịch tả lợn trắng. Bệnh xuất hiện đột ngột, không có triệu chứng ban đầu, vật nuôi có hiện tượng ủ rũ, bỏ ăn và sốt cao 41-42 độ C, giẫy giụa rồi chết khá nhanh trong vòng 24-48 giờ. Diễn biến bệnh trong vòng 1-2 ngày, tỷ lệ chết lên tới 100%.

Ở thể cấp tính, lợn cũng biểu hiện ủ rũ, kém ăn, bỏ ăn và cũng sốt cao như thể nêu trên kéo dài đến lúc gần chết, mắt viêm đỏ có dử, nước miếng chảy, miệng loét phủ bựa vàng ở lợi, chân răng, hầu; lợn thường bị khó thở, ói mửa, nhịp thở rối loạn. Lúc đầu lợn bị táo bón, sau đó tiêu chảy phân bết vào mông, đuôi mùi thối khắm thậm chí còn kèm theo cả máu tươi.

Ở một số vị trí như tai, mõm, bụng và 4 chân xuất huyết lấm tấm. Vào cuối thời kỳ bệnh, lợn bị bại2 chân sau đi loạng choạng hoặc không đi được. Nếu ghép với các bệnh khác thì các triệu chứng trên trầm trọng hơn.

Biểu hiện ở thể mãn tính, lợn tiêu chảy gầy yếu, lợn bệnh chết do kiệt sức, lợn có thể khỏi bệnh nhưng vẫn mang virus.

Bệnh tích ở thể cấp tính lợn bị bại huyết, xuất huyết nặng ở các cơ quan nội tạng, hạch amidan xuất huyết, niêm mạc miệng, lưỡi tụ máu, dạ dày bị tụ huyết, có nốt loét ở đường tiêu hóa, ở van hồi manh tràng xuất huyết có những vết loét hình cúc áo...

Bệnh tích ở thể bệnh mãn tính phần ruột có những vết loét lõm sâu, bờ cao phủ bựa vàng và phổi có thể bị viêm dính vào lồng ngực.

Khi lợn mắc bệnh thường ghép với một số bệnh khác nên triệu chứng và bệnh tích có thể thay đổi tùy theo ghép với bệnh nào.

Thêm nữa, do đã tổ chức tiêm phòng vaccine nhiều năm nên nhiều trường hợp không phát hiện đầy đủ các bệnh tích điển hình nêu trên.

Để xác định bệnh một cách chính xác cần căn cứ vào kết quả xét nghiệm mẫu bệnh phẩm trong phòng thí nghiệm do cán bộ thú y trực tiếp lấy mẫu.

Trần Phượng/ Dân Việt

Monday, July 28, 2014

Kỹ thuật chăm sóc cây vú sữa ghép

Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại. Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng, nên cắt bớt cỏ trong vườn, hạn chế dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.



1. Giai đoạn mới trồng đến 3 năm tuổi

a. Chăm sóc

- Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.

- Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng, nên cắt bớt cỏ trong vườn, hạn chế dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.

- Tưới nước: cần cung cấp nước đầy đủ cho cây vú sữa, mỗi tuần tưới 3 - 5 lần, mỗi lần tưới 20 - 30 lít nước/cây nhất là vào mùa nắng để giảm tỷ lệ cây chết và giúp cây phát triển nhanh, đặc biệt trong 3 năm đầu.

b. Bón phân

- Sau khi trồng đến một năm: sử dụng NPK 16 - 16 - 8 + urê tỉ lệ 1:1, liều lượng 40 g/cây; hoà phân vào nước để tưới, mỗi tháng nên bón phân 1 lần 

- Cây 1 - 3 năm tuổi: bón 1 - 2 kg hỗn hợp gồm urê, DAP, NPK 16 - 16 - 8 (hoặc 20 - 20 - 15), với tỉ lệ 1:1:1; chia làm 4 lần bón trong năm, lượng phân bón tăng dần theo độ lớn của cây (năm đầu dùng 1kg phân, sau đó tăng dần)

c. Tỉa cành tạo tán

Tong các năm đầu nên tỉa cành để cây vú sữa có cành phân bố theo 4 hướng, tạo cho cây có tán tròn đều. Chú ý tỉa bỏ cành vượt, cành trong tán cây, cành bị sâu bệnh.

2. Giai đoạn cây từ 3 năm tuổi trở lên

a. Tủ gốc giữ ẩm

Rễ vú sữa thường ăn nông, nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ rễ, do đó cần phải tủ gốc bằng rơm rạ, cỏ khô để giữ ẩm cho đất. Nên tủ cách gốc để tránh sâu bệnh tấn công.

b. Làm cỏ và trồng xen

Nên làm cỏ thường xuyên trong các năm đầu để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng và loại bỏ nơi trú ẩn của sâu bệnh. Đến năm thứ tư trở đi tán cây rộng dần và công làm cỏ sẽ giảm. Để giảm bớt công làm cỏ và tưới nước, trong các năm đầu nên dùng rơm rạ phủ gốc và trồng xen một số cây ngắn ngày khác để tăng nguồn thu nhập.

c. Tưới tiêu

Để cây vú sữa phát triển nhanh hơn, cần phải tưới nước đầy đủ nhất là trong những năm đầu. 
Giai đoạn cây ra hoa và mang trái tưới nước thường xuyên 2 - 3 ngày/lần giúp cây ra hoa, đậu trái tốt hơn.

d. Tỉa cành, tạo tán

Hàng năm, sau khi thu hoạch, phải vệ sinh vườn bằng cách tỉa bỏ những cành mọc đứng trong tán, cành gãy, cành sâu bệnh, cành khô, già cỗi, cành phụ ốm yếu mọc liên tiếp trên cùng một cành chính, cành mọc gần mặt đất; tỉa thấp lại cành chính khống chế chiều cao của cây không quá 4 – 4,5 m để tiện chăm sóc, thu hoạch sau này.

Đối với cây quá già cỗi: cây cho lá nhỏ, trái nhỏ, chậm ra nhánh mới; để trẻ hóa vườn cây vú sữa này cần cưa bỏ từ 30 – 60% số cành để cây phát triển cành mới, số cành mới phát triển sẽ cho trái lớn hơn, tốt hơn vào các vụ sau.

Sau mỗi vụ thu hoạch nên cưa bỏ 1 - 2 cành vươn cao, ít lá và có biểu hiện sinh trưởng, năng suất kém nhất trên tán cây. Cưa ngắn các cành này còn 30 - 50cm tính từ gốc cành. Vết cưa nghiêng 45 độ để tránh đọng nước. Sơn phủ bề mặt vết cưa bằng dung dịch sun-phát đồng. Khoảng 15 - 20 ngày sau dưới mỗi vết cưa sẽ phát triển 5 - 15 chồi mới, nên tỉa bớt số chồi mới chỉ giữ lại 2 - 3 chồi khỏe và ở vị trí đều quanh cành. Khi chồi mới phát triển đến chiều dài 50 - 60cm thì tiến hành loại bỏ đỉnh sinh trưởng để kích thích chồi phân cành.

e. Bón phân

Từ năm thứ tư sau khi trồng, cây vú sữa bắt đầu cho trái; vì vậy lượng phân bón cho cây cũng tăng dần lên để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây. Bón 2 – 3 kg hỗn hợp gồm urê, DAP, NPK 16 – 16 – 8 (hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:1:1; chia làm 4 lần bón trong năm bón vào lúc cây ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu hoạch 1 – 2 tháng. Lượng phân bón trên áp dụng cho cây 
4 – 5 năm tuổi.

Cây vú sữa từ năm thứ 5 sau khi trồng, bước sang giai đoạn cho trái ổn định, và cũng là bắt đầu giai đoạn kinh doanh. Nên bón 4 lần phân vào các giai đoạn: sau khi thu hoạch làm gốc để cây chuẩn bị ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu hoạch 1 - 2 tháng. Liều lượng phân bón thay đổi, tăng dần theo tuổi cây từ 6 năm đến trên 20 năm (lúc đầu bón số lượng nhỏ, tăng dần theo từng năm). Mức phân đề nghị cho cây 5 năm tuổi như sau :

Lần 1: Bón vào giai đoạn xử lý ra hoa sớm với 5 - 10kg phân hữu cơ hoai/cây và 3 - 6 kg gồm NPK (20 - 20 - 15 hoặc 16 - 16 - 8), urê và phân lân theo tỉ lệ 1/1/1.

Lần 2: Bón vào giai đoạn đậu trái lúc trái bằng nút áo với lượng 2 - 4 kg phân/cây gồm urê và DAP theo tỉ lệ 2/1.

Lần 3: Bón vào giai đoạn nuôi trái, lúc trái có đường kính khoảng 2 cm, với 2 - 3kg phân NPK/cây (dạng phân như nói trên).

Lần 4: Bón vào giai đoạn trước thu hoạch 1 - 2 tháng với liều lượng 1 - 2kg phân NPK/cây.
Các lần bón phân cách nhau từ 2,5 - 3 tháng.

Phương pháp bón: Trước khi bón phân nên tiến hành thu dọn toàn bộ vật liệu tủ gốc rồi bón lên mặt liếp (mô) hoặc xới rảnh sâu 5-10 cm2/3 đường kính tán cây, bón phân vào rãnh. Sau khi bón phân nên che phủ gốc bằng các vật liệu hữu cơ và tưới nước liên tục 5 - 7 ngày cho phân tan vào đất.

f. Thu hoạch

Từ khi đậu trái đến khi thu hoạch vú sữa là 180 - 200 ngày, mùa thu hoạch vú sữa Lò rèn tập trung vào tháng 2 và tháng 3 (dương lịch). Khi chín vỏ vú sữa có màu sáng bóng.

Vỏ vú sữa mỏng nên dễ bị giập, trầy sướt; khi chín cuống trái dễ bị sút ra nên khi thu hoạch phải thật nhẹ nhàng và khéo léo, không để trái trực tiếp xuống đất vì nấm bệnh từ đất sẽ xâm nhập vào trái qua cuống hoặc vết thương.

Nên bao trái để tránh trầy sướt khi vận chuyển. Trong thời gian tồn trữ, vận chuyển không nên để trái tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời vì sẽ làm tổn thương vỏ trái, không nên che nắng trái bằng tấm nilon vì nilon hấp thu nhiệt sẽ làm nám vỏ trái.

Khi để trái vào thùng, vào giỏ… nên lót giấy hoặc vật liệu xốp và không nên để quá 4 - 5 lớp/giỏ.

Nguyễn Văn Nga - TTKNQG (theo tờ tin KNVN 7/2014)

Friday, July 25, 2014

Cách phòng, chống bệnh dịch tả lợn

Bệnh dịch tả lợn là bệnh xảy ra quanh năm. Bệnh sẽ có lúc tăng lúc giảm tùy theo thời tiết thay đổi hoặc có sự biến đổi của đàn lợn trong năm.

Chuồng nuôi sạch sẽ cũng là cách phòng chống dịch tả tốt.

Ngoài ra, dịch bệnh này còn phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ tiêm phòng, lợn lớn đã có miễn dịch bị giết mổ hay ở lợn con thay đàn bổ sung vào chưa kịp tiêm phòng làm cho tỷ lệ mẫn cảm trong đàn tăng lên. Bệnh dịch tả lợn có tốc độ lây lan rất nhanh và tỷ lệ chết lên tới 90%. Và khi đã mắc phải chứng bệnh nêu trên, sức đề kháng lợn đã kém, một số bệnh khác tấn công đồng thời như phó thương hàn, tụ huyết trùng, đóng dấu lợn... Vì vậy, để góp phần vào ổn định và hạn chế dịch bệnh trong quá trình chăn nuôi, việc tiêm phòng cho vật nuôi theo mùa vụ và tiêm phòng bổ sung là rất cần thiết.

Để bổ sung kiến thức về dịch tả ở heo giúp người chăn nuôi có thể nhận biết và chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh, người chăn nuôi có thể tham khảo một số nội dung sau: Trước tiên là về tác nhân gây bệnh dịch tả ở lợn. Loại bệnh trên là do virus (Tortoi suis) thuộc họ Flaviridae, giống Pesti virus, có quan hệ mật thiết với virus gây bệnh tiêu chảy ở bò và virus gây bệnh Border ở cừu. Virus dịch tả lợn có thể sống khá lâu từ vài tháng đến vài năm trong thịt đông lạnh. Thông qua hoạt động thương mại, vận chuyển, virus có trong các sản phẩm của lợn có thể lây lan vào vùng đang an toàn dịch. Khi vật nuôi mẫn cảm có thể nhiễm khi ăn phải thức ăn có chứa virus như các thành phần phụ phẩm của quá trình giết mổ hoặc thức ăn thừa, chất thải từ nhà bếp không qua xử lý. Virus gây bệnh dịch tả ở lợn có sức đề kháng yếu, mặc dù có khả năng tồn tại lâu ở ngoại cảnh như ở trong phân gia súc, thịt đông lạnh..., tuy nhiên virus lại dễ bị tiêu diệt bởi các chất sát trùng thông thường như xút (NaOH) 2%, nước sôi. Ở nhiệt độ cao virus bị tiêu diệt nhanh. Các chất bài tiết, dịch tiết, máu, hạch lâm ba hay lách lợn bệnh có chứa virus. Máu của những con vật nung bệnh, sau 24 giờ có khả năng gây bệnh. Những con khỏi bệnh, sau 2 tháng vẫn bài thải mầm bệnh ra ngoài nên người chăn nuôi nắm được điều này, cách ly vật nuôi bị bệnh khỏi vật nuôi đang an toàn. Đối với dịch bệnh nêu trên có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và loài lợn, mạnh mẽ nhất ở lợn con từ2-3 tháng tuổi. Về đường lây truyền bệnh ở lợn chủ yếu qua đường tiêu hóa, niêm mạc hay qua vết thương ở da và một phần qua hệ thống đường hô hấp. Thông thường lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe; gián tiếp là qua nước uống, thức ăn, dụng cụ chăn nuôi, phương tiện vận chuyển...

Trần Phượng/ Dân Việt

Monday, July 21, 2014

Kỹ thuật trồng và chăm sóc hoa phong lan

Nếu trồng lan kinh doanh cần thiết kế khung giàn lan làm bằng sắt chắc chắn, đảm bảo bền để chống gió bão. Giàn che ánh sáng dùng lưới màu xám hay xanh đen.

Giàn đặt chậu làm bằng sắt, giàn treo làm bằng tầm vông hay sắt ống nước. Xung quanh vườn cần dựng hàng rào chắn chắc chắn hay rào bằng lưới B40. Thiết kế hàng trồng theo hướng Bắc Nam để vuông góc với dường đi của ánh nắng.

Các chậu lan cần chọn cùng cỡ kích thước, cùng giống, cùng độ tuổi, bố trí theo từng khu vực để dễ chăm sóc. Nước tưới phải sạch, có rãnh nước dưới dàn lan để tạo khí hậu mát cho vườn lan.

Nếu trồng lan để chơi trên lan can, mái hiên, sân thượng cần chú ý rằng tiểu khí hậu các nơi này thường bị khô nóng do ảnh hưởng của các kết cấu bê tông, mái tole… xung quanh. Cần đặt thêm các chậu cảnh khác như cau, mai chiếu thuỷ, nguyệt quế… để giảm bớt ảnh hưởng của các yếu tố này. Cần che bớt ánh sáng mặt trời, tránh ánh nắng chiếu toàn bộ, nhất là vào buổi chiều.


1. Chọn giống

Loài thích hợp cho trồng lan kinh doanh là Dendrobium, Phalaenopsis, Oncidium, Vanda, Cattleya… đây là những loài ra hoa khỏe, đẹp và bền cây, cho thu hoạch liên tục

Nếu trồng lan để chơi, giải trí nên trồng Dendrobium, Vũ nữ, Hồ điệp; đây là những loài dễ chăm sóc và ra hoa. Có thể nhân giống bằng nuôi cấy mô hay tách mầm. Điều kiện môi trường nuôi cấy mô phong lan với nhiệt độ 22-27oC, cường độ ánh sáng thích hợp, pH từ 5-5,7. Khử trùng mô bằng Starner 20 WP cấy bằng Clorox hoặc Hipocloritcalci, bổ sung các chất điều hòa sinh trưởng.

Có thể tách mầm từ các chậu lan lớn, mỗi phần để 2-3 nhánh. Dùng dao sắc khử trùng bằng cồn, vết cắt cần gọn, sau cắt bôi vôi vào vết cắt cho nhanh lành sẹo.

2. Chuẩn bị giá thể và chậu

Có thể lấy than gỗ, xơ dừa, vỏ lạc làm giá để trồng lan. Than gỗ nung cần chặt khúc, kích thước 1 x 2 x 3cm, than phải ngâm, rửa sạch, phơi khô. Xơ dừa xé cho tơi ngâm khoảng 1 tuần cho bớt tanin và mặn, phơi khô. Mụn dừa cũng cần rửa sạch phơi khô. Vỏ dừa chặt khúc 1 x 2 x 3 cm xử lý bằng nước vôi 5%. Chậu trồng bằng nhựa hay đất nung, kích cỡ tuỳ loại và độ tuổi.

3. Kỹ thuật chuyển chậu

Nếu dùng lan cấy mô thì khi lan mô đạt khoảng 4cm cần chuyển ra ngoài. Cây mô rửa sạch để trên miếng lưới hay rổ kê trên chậu nước để giữ mát cho cây con. Giai đoạn trồng chung trên giàn lấy xơ dừa bó xung quanh cây lan cấy mô, dùng dây thun cuốn lại rồi đặt lên giàn. Sau khi trồng trên giàn được 6-7 tháng thì chuyển sang chậu nhỏ. Khoảng 6 tháng thì chuyển sang chậu lớn.

Sau mỗi lần chuyển chậu khoảng một tuần mới được bón phân. Việc thay đổi chậu còn tùy kích cỡ của cây, mức độ thối, hư mục rêu bám… Nếu trồng lan để chơi, lan lâu ngày ra hoa ít cần dỡ lan ra khỏi chậu, cắt bớt các rễ già và quá dài, chuyển sang chậu mới, thay giá thể mới, lan sẽ sinh trưởng tốt và ra hoa trở lại.

4. Chăm sóc lan

Lan là cây trồng dễ chăm sóc nếu chúng ta đảm bảo được các điều kiện thuận lợi cho lan phát triển. Các yếu tố quan trọng nhất đối với lan là ánh sáng, nước tưới, độ ẩm, chậu hay giá thể và dinh dưỡng.

+ Chiếu sáng:

Mật độ chiếu sáng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sinh trưởng, phát triển và ra hoa của lan. Thiếu nắng cây lan vươn cao nhưng nhỏ và ốm yếu, lá màu xanh tối, dễ bị sâu bệnh tấn công, cây ít nảy chồi, khó ra hoa, hoa nhỏ và ngắn màu sắc không tươi, hoa nhanh tàn. Thừa nắng lan thấp cây, lá vàng có vết nhăn và khô, mép lá có xu hướng cụp vào, dễ ra hoa sớm khi cây còn nhỏ nên hoa ngắn, nhỏ, cây kém phát triển. Nếu nắng gắt quá lá sẽ bị cháy, khô dần rồi chết.

Lan có yêu cầu khác nhau về mức độ chiếu sáng tùy theo loài lan và tuổi cây. Lan Hồ điệp (Phalaenopsis) ít chịu nắng nhất, có thể chịu được 30% nắng, lan Cattleya chịu được 50% nắng, lan Dendrobium hay Vanda lá hẹp chịu được 70% nắng, trong khi lan Vanda lá dài và Bò cạp chịu được tới 100% nắng.

Lan con từ 0-12 tháng đang trong giai đoạn tăng trưởng thân lá chỉ cần chiếu sáng 50%, lan nhỡ từ12-18 tháng cần chiếu sáng tới 70% và thời điểm kích thích ra hoa có thể cho chiếu sáng nhiều hơn, thậm chí bỏ dàn che để chiếu sáng tự nhiên. Hướng chiếu sáng cũng rất quan trọng đối với lan.

Lan đặt ở hướng Đông nhận ánh nắng buổi sáng sẽ tốt hơn nhiều so với lan đặt ở hướng Tây nhận ánh nắng buổi chiều. Chính vì vậy nếu trồng lan trên sân thượng hay ban công ở phía Tây lan kém phát triển và ít hoa. Khi trồng lan cần bố trí hàng theo hướng Bắc– Nam để cây nhận được ánh sáng phân bố đầy đủ nhất.

+ Phân bón:

Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với lan. Khi lan đầy đủ dinh dưỡng cây tươi tốt, ra nhiều hoa, hoa to đẹp, bền trong khi thiếu dinh dưỡng lan còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Lan cần 13 chất dinh dưỡng khoáng, thuộc các nhóm đa, trung và vi lượng: Dinh dưỡng đa lượng gồm Đạm (N), Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu huỳnh (S), Magiê (Mg) và Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).

Thiếu đạm, cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển vàng theo qui luật lá già trước, lá non sau, rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cỗi, cây khó ra hoa.

Thừa đạm, thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh, đầu rễ chuyển xám đen, cây khó ra hoa.

Thiếu lân, cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển xanh đậm, rễ không trắng sáng mà chuyển màu xám đen, không ra hoa.

Thừa lân cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây mất sức rất nhanh sau ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến thiếu Kẽm, Sắt và Mangan.

Thiếu kali, cây kém phát triển, lá già vàng dần từ hai mép lá và chóp lá sau lan dần vào trong, lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công, cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu không sắc tươi và dễ bị dập nát.

Thừa kali, thân lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa kali dễ dẫn đến thiếu magiê và can xi.

Thiếu lưu huỳnh, lá non chuyển vàng nhạt, cây còi cọc, kém phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm

Thiếu magiê, thân lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các lá già trong khi hai bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố hình thành không đầy đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.

Thiếu canxi, cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây yếu dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công

Thiếu kẽm, xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc sít nhau, các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.

Thiếu đồng, xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu lá chuyển trắng, số hoa hình thành ít bị hạn chế, cây yếu dễ bị nấm tấn công.

Thiếu sắt, các lá non chuyển úa vàng sau trở nên trắng nhợt, cây còi cọc, ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.

Thiếu mangan, úa vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng bởi sự xuất hiện các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau lan ra cả lá, cây còi cọc, chậm phát triển.

Thiếu bo, lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết khô đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc số nụ ít, hoa dễ bị bị rụng, không thơm và nhanh tàn.

Thiếu molypden, xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới, nếu thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém phát triển.

Thiếu clo, xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành sau chuyển màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.

Lan rất cần phân bón nhưng không chịu được nồng độ dinh dưỡng cao, vì vậy bón phân cho lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng cách phun qua lá. Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa, trung và vi lượng với thành phần và tỷ lệ phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ sinh trưởng thân lá mạnh cần đạm cao, lân và kali thấp, trước khi ra hoa cần lân và kali cao, đạm thấp trong khi lan nở hoa cần kali cao, lân và đạm thấp hơn.

Phân bón thích hợp cho các thời kỳ này là Đầu Trâu 501, 701 và 901, đây là loại phân có đầy đủ và cân đối đa, trung, vi lượng và các chất điều hòa sinh trưởng. Nồng độ và liều lượng phun tùy thuộc tuổi và thời kỳ phát triển như sau:

+ Lan mới trồng 0-6 tháng hoặc lan mới ra chồi non sau cắt hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 500 ppm (0,5 g/lít). Giai đoạn trước tháng phun định kỳ 3 ngày/lần, từ 3-6tháng định kỳ 7 ngày/lần.

+ Lan mới trồng 6-12 tháng hay lan cũ có chồi mới đang phát triển mạnh: Phun phân bón lá Đầu Trâu 501 (30-15-10) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít), định kỳ 7 ngày/lần.

+ Lan mới trồng 12-18 tháng hay lan cũ có chồi đã thành thục chuẩn bị ra hoa: Phun phân bón lá Đầu Trâu 701 (10-30-20) nồng độ 3.000 ppm (3g/lít), định kỳ 7 ngày/lần. Giai đoạn này cần giảm nước tưới và bỏ bớt mật độ giàn che để năng mức độ chiếu sáng nhằm kích thích ra hoa.

+ Khi vòi hoa xuất hiện: Phun phân bón lá Đầu Trâu 901 (15-20-25) nồng độ 2.000 ppm (2g/lít) nhằm thúc hoa nở to, đẹp, giữ hoa lâu tàn.

+ Tưới nước: Lan rất cần nước cho quá trình sinh trưởng phát triển. Nếu thiếu nước cây sẽ khô héo, giả hành teo lại, lá rụng nhưng không chết, nụ có thể trước khi nở hoa. Thừa nước, cây dễ bị thối đọt nhất là với các giống lan có lá đứng mọc sít nhau. Quá nhiều nước rễ có rong rêu và nấm bệnh phát triển mạnh. Nước tưới cho lan không quá mặn, phèn và clor dưới ngưỡng cho phép, pH 5,6. Chỉ tưới nước đủ ẩm, nên tưới vào sáng sớm hay chiều mát, tránh tưới buổi trưa khi trời đang nắng nóng. Sau những trận mưa bất thường, nhất là mưa đầu mùa cần tưới lại ngay để rửa bớt các chất cặn đọng lại trên thân lá.

+ Phòng trừ sâu bệnh: Lan là cây cũng dễ bị sâu bệnh, nhất là trong điều kiện chăm sóc kém, điều kiện môi trường không thuận lợi. Tùy theo từng loại sâu bệnh mà dùng các loại thuốc thích hợp. Liều lượng và nồng độ phun cần theo đúng hướng dẫn trên bao bì sản phẩm.

Nếu lan bị các loại sâu hại thân lá có thể dùng các thuốc chứa hoạt chất Fenitrothion, Trichlorfon như Ofatox 400EC, hoạt chất Cartap như Patox 95SP hay Captafon, Captan hoặc Actara 25WG. Lan bị rệp sáp, rệp trắng, rầy mềm dùng Supracid 40ED/ND, Suprathion 40EC, Bitox 40EC hay Ofatox 400EC. Lan bị nấm, vi khuẩn hay virus gây nên tình trạng cháy lá từng đám, vết cháy lan tròn dần, bệnh thối rễ dùng Zinep, Starner 20 WP hay Benomyl.

5. Thu hoạch và bảo quản

Hoa cắt cánh ngâm trong dung dịch khoảng 15 phút, giúp hoa lâu héo, sau đó bọc lại bằng giấy báo.

Theo rauhoaquavietnam/ Dân Việt

Thursday, July 17, 2014

Diệt ốc bươu vàng

Ốc bươu vàng (OBV) có khả năng thích nghi rộng và sống được trong điều kiện khắc nghiệt. Gặp khô hạn chúng chui sâu vào bùn khô và sống tới 6 tháng.


OBV có thể sống ở nhiệt độ < 15 độ C hoặc > 38 độ C.

Chúng khả năng sinh sản rất nhanh, từ một con ốc cái đẻ được 10 - 13 ổ trứng (khoảng 1.000 - 1.200 trứng/tháng). Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 70 - 90 ngày. Thời gian sống của OBV từ 2 - 6năm. OBV ăn khỏe, ăn tạp. Lúa giai đoạn mạ là thức ăn ưa thích của chúng. Ốc càng lớn gây hại càng mạnh. Diệt OBV bằng 4 biện pháp sau:

1. Biện pháp thủ công

- Thường xuyên bắt ốc trưởng thành, thu trứng để tiêu hủy.

- Làm bẫy bả: Dùng dây, lá khoai lang, lá khoai môn, khoai sọ, đu đủ… bó thành nhiều bó, thả xuống mặt nước dọc theo bờ ruộng để dẫn dụ ốc đến ăn và thu gom.

- Cắm các cọc tre, gỗ ở những chỗ ngập nước, mương, kênh tưới để thu hút ốc đến đẻ trứng và thu gom.

- Đặt lưới hoặc phên chắn ở các cửa lấy nước vào ruộng ngăn ốc xâm nhập và thu gom ốc.

Các biện pháp thủ công cần được tiến hành thường xuyên trong suốt vụ, nên bắt ốc vào sáng sớm hoặc chiều tối mát. Ốc thu gom đem tiêu hủy hoặc dùng để làm phân bón cho cây trồng, nghiền làm thức ăn chăn nuôi. Không vứt ốc thu gom bừa bãi trên đồng ruộng hoặc gần khu vực sinh hoạt của người dân gây ô nhiễm môi trường sinh thái.

2. Biện pháp canh tác

- Vệ sinh đồng ruộng: Dọn sạch cỏ dại trên bờ ruộng, củng cố hệ thống tưới tiêu ngăn không cho ốc theo nước chảy từ ruộng này sang ruộng khác.

- Làm đất: Cày bừa kỹ để diệt OBV. Cho nước vào ruộng để nhử ốc trồi lên và thu gom.

- Làm rãnh trên ruộng, khi tháo nước ốc tập trung xuống rãnh để thu gom.

3. Biện pháp sinh học

- Thả vịt để vịt ăn ốc non và trứng ốc.

- Thả cá: Ở những vùng ngập nước và khó rút cạn nước, mô hình lúa - cá là biện pháp tốt nhất để làm giảm thiệt hại do OBV. 

4. Biện pháp hoá học

Sử dụng các loại thuốc BVTV ít độc với động vật thủy sinh, thuốc có hoạt chất Niclosamide (Dioto 250 EC, Pazol 700WP…); Metaldehyde (Bolis 10GB, 12GB, Yellow - K 12GB, 250SC…) ...

Chú ý: Chỉ sử dụng thuốc hóa học ở những diện tích có mật độ ốc cao.

TH/ nongnghiep.vn