Tuesday, August 23, 2011

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm trong ao đất


Cua biển (Scylla paramamosain) là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao bởi hàm lượng mỡ thấp, protein cao, dồi dào về khoáng chất và vitamin. Con cua được xem là đối tượng nuôi xoá đói giảm nghèo của bà con ngư dân vùng biển. Những năm gần đây, nghề nuôi cua thương phẩm phát triển khá mạnh. 
- Quy trình nuôi cua thương phẩm trong ao đất như sau:


ảnh minh họa
- Chuẩn bị ao nuôi 
Ao nuôi cua thường rộng khoảng 5.000m2, có cống cấp và thoát nước riêng. Chọn ao ở vùng chất đất ít bị nhiễm phèn, chất đáy là bùn pha cát, thịt pha sét, không có qúa nhiều bùn nhão, lớp bùn <20cm, pH từ 7.5-8.2 và độ mặn từ 10-25%. Đào mương sâu 0,5-0,7m từ cống này đến cống bên kia. Mương có độ dốc xuôi từ cống cấp đến cống tiêu nước. Trong ao tạo nhiều gờ nổi diện tích mỗi gờ từ 10-100 m2 tuỳ diện tích ao. 

Tháo cạn nước và bón vôi với lượng bón khoảng 6kg/100m2. Phơi nắng 5-10 ngày cho đáy ao đến khi nứt nẻ. Tiến hành thả chà và lấy nước qua lưới lọc vào ao, mức nước là 0,6 - 0,8m. Chà được làm bằng các loại cành cây như: bần, đước... được phơi khô và bó lại thành bó. 

Gây màu nước bằng phân urê: 2kg/1000m2, NPK (20:20:0): 2kg/1000m2. Ngoài ra có thể dùng phân gà để bón cho ao. Phân được hòa tan với nước ngọt, tạt xuống ao vào lúc 9 -10h sáng. 

Làm đăng chắn quanh bờ không cho cua vượt bờ ra ngoài, có thể dùng lưới ruồi bao quanh, đăng tre, ….Đăng,lưới chắn phải nghiêng về phía trong ao một góc 45o, đăng phải cao từ 0.8-1m.

- Thả giống 

Nguồn giống là nguồn cua sản xuất nhân tạo, cua bột có kích thước 0.5-0.7cm được ương lên giống 2-5cm, chất lượng tốt, đủ các phần phụ và mạnh khỏe. giống khỏe mạnh, đồng cỡ, màu sắc tươi sáng, không bệnh 
Mật độ thả: cõ cua 1,5 - 2 cm thả 1con /m2

Nên thả cua vào buổi sáng, cua được thả đều khắp ao. Thả cua sát mép nước để cua tự bò xuống. Trước khi thả cần chú ý sự chênh lệch độ mặn, nếu độ mặn quá chênh lệch ta cần thuần hoá rồi mới thả. Nên thả vào lúc nhiệt độ còn thấp (7 – 9 giờ sáng).

- Cho ăn 

Trong nuôi quảng canh nguồn thức ăn chủ yếu là tự nhiên. Tuy nhiên khi thức ăn tự nhiên trong ao nuôi nghèo nàn ta nên cho cua ăn thêm thức ăn chế biến. 

Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống như cá tạp, …Những ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức khô : cá vụn, tép, moi phơi khô,..., trước lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước cho cá mềm ra.

Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4–6% tổng khối lượng cua trong ao. 
Cách tính tổng khối lượng cua trong ao: Khoanh 5 điểm khác nhau ( 4 góc và 1 ở giữa ao) có diện tích khỏang 4-5m2 rồi bắt sạch cua ở mỗi điểm. 

Tổng số cua A (con) = [Tổng số cua bắt được B (con) x diện tích ao]/ (5 x diện tích 1 điểm bắt)

Khối lượng cua trong ao M (kg) = [(Tổng khối lượng cua bắt được x A (con)]/B (con) 

Cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối. Vì vậy, mỗi ngày cho cua ăn một lần vào thời gian từ 17 – 19h. Thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh nhau. 

Dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua. Sau 2-3 giờ cho ăn kiểm tra sàng ăn, nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng thì có thể tăng lượng thức ăn, nếu thức ăn vẫn còn thì giảm lượng thức ăn.

- Chăm sóc, quản lý 

Mỗi ngày thay 20-30% lượng nước trong ao. Một tháng nên thay toàn bộ nước trong ao 2 lần
Nước trong sạch kích thích cua hoạt động, ăn nhiều, lột xác tốt. 

Định kỳ thu mẫu để tính sản lượng cua có trong ao mà điều chỉnh lượng thức ăn cho vừa đủ hoặc định kỳ 10 ngày bắt cua lên kiểm tra tốc độ sinh trưởng và tình trạng sức khoẻ của cua để có giải pháp xử lý kịp thời 
Thường xuyên kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào chắn, tránh thất thoát cua.

- Thu hoạch 

Sau 04 tháng nuôi, cua đạt tỉ lệ sống trung bình trênn 50%, kích cỡ thương phẩm 0.25 – 0.3 kg/con, ta tiến hành thu cua. 
Thu toàn bộ: Khi cua giống đạt kích cỡ yều cầu, thu hết giá thể mà cua trú ẩn, rồi tiến hành xả cạn bắt cua. Có thể thu tỉa bằng thả rập.


Nguyễn Ngọc Tú - TT Khảo nghiệm & NCUD kỹ thuật TS Bình Định

Một số điểm cần lưu ý trong chăn nuôi thỏ

Chăn nuôi thỏ có nhiều lợi thế do chi phí đầu tư thấp, tận dụng được các phế phụ phẩm nông nghiệp, lao động nhàn rỗi, lao động phụ. Thỏ thuộc loại đẻ khỏe, phát triển nhanh. Một thỏ mẹ nặng 4 - 5kg trong một năm có thể sản xuất ra 90 - 140 kg thịt, hiệu suất cao hơn nhiều so với các loài gia súc khác.

Ảnh minh họa

Về cơ bản, thỏ thuộc loại dễ nuôi, tuy nhiên để nuôi thỏ đạt hiệu quả cao cần chú ý các vấn đề sau đây:

1. Vấn đề thức ăn và nước uống cho thỏ

Do đặc điểm của dạ dày thỏ là co giãn tốt nhưng co bóp yếu. Manh tràng có dung tích lớn và có khả năng tiêu hóa chất xơ nhờ hệ vi sinh vật. Vì vậy, cần cho thỏ ăn nhiều thức ăn thô xanh chất lượng tốt, để vừa đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của thỏ, vừa có tác dụng chống đói và đảm bảo sinh lý tiêu hóa bình thường. Thức ăn thô xanh cho thỏ phải được rửa sạch bằng nước máy hoặc nước giếng. Những loại rau lá có hàm lượng nước lớn như bắp cải, khoai lang…, sau khi rửa cần phơi tái cho bớt nước trước khi cho thỏ ăn.

Cho thỏ ăn thức ăn nghèo chất xơ hoặc thức ăn chứa nhiều nước, thức ăn không tươi, bị dập nát dễ dẫn đến tình trạng rối loạn tiêu hóa như chướng bụng đầy hơi hoặc ỉa chảy và thỏ có thể bị chết.

Cũng cần lưu ý là thỏ thiếu nước còn nguy hiểm hơn thiếu thức ăn, đặc biệt là đối với thỏ đẻ và tiết sữa. Không cung cấp đầy đủ nước uống cho thỏ dẫn đến tình trạng thiếu sữa hoặc thậm chí thỏ mẹ ăn thịt thỏ con. Trong thời gian nuôi con nên cho thỏ mẹ uống thêm nước đường hoặc ăn mía để nhanh phục hồi cơ thể, tiết nhiều sữa và đàn con phát triển tốt.

2. Vấn đề sinh sản của thỏ

Tùy theo giống, thỏ có thể thành thục tính dục lúc 3 - 4 tháng tuổi. Để đề phòng hiện tượng cắn xé nhau và giao phối tự do, dẫn đến tình trạng giảm trọng hoặc rối loạn sinh sản, khi thỏ được 3 tháng tuổi nên nhốt riêng thỏ đực với thỏ cái.

Không nên cho thỏ phối giống ngay khi thỏ động dục lần đầu mà nên chờ đến 5 - 6 tháng tuổi, lúc thỏ đạt 75 - 80% khối lượng của thỏ trưởng thành. Cho phối giống trước 5 tháng tuổi thì đàn con đẻ ra sẽ yếu ớt, đồng thời ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của thỏ bố mẹ.

Do đặc điểm của thỏ là trứng chỉ rụng sau khi giao phối 9 - 10 giờ nên trong thực tế, để tăng số trứng được thụ tinh và tăng số con đẻ ra, nên áp dụng phương pháp phối giống bổ sung, tức là phối lại lần thứ hai sau lần thứ nhất từ 6 đến 9 giờ.

Khi cho thỏ phối giống cũng cần chú ý là bắt thỏ cái đến lồng thỏ đực mà không nên làm ngược lại, vì khi lạ chỗ thỏ đực khó làm quen với thỏ cái và thỏ cái thường kháng lại thỏ đực.

Để tránh đồng huyết, không để thỏ đực phối với thỏ cái cùng gia đình.

3. Vấn đề làm lồng và chuồng nuôi thỏ

Cần phải làm lồng nuôi thỏ. Lồng thỏ bảo đảm phải chắc chắn, thỏ không chui lẫn đàn, tránh được chuột tấn công và chăm sóc thuận tiện.

Phải làm ổ đẻ có nắp đậy cho thỏ. Sau khi thỏ đẻ, mỗi ngày chỉ nên đưa ổ đẻ vào lồng thỏ mẹ một lần để cho con bú, tránh hiện tượng thỏ mẹ chui vào ổ ỉa đái, bới ổ và dẫm đạp lên đàn con.

Thỏ là loài gia súc nhạy cảm với các tác nhân ngoại cảnh. Thỏ có ít tuyến mồ hôi dưới da, cơ thể thải nhiệt chủ yếu qua đường hô hấp. Khi nhiệt độ không khí tăng trên 35 độ C và kéo dài, thỏ rất dễ bị cảm nóng. Do các đặc điểm này lồng nuôi thỏ cần đặt tại những vị trí thoáng, mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông.

Trong trường hợp chăn nuôi thỏ quy mô lớn cần xây dựng chuồng trại cẩn thận. Chuồng trại phải đảm bảo thông thoáng và dễ làm vệ sinh. Trong trường hợp nuôi thỏ quy mô gia đình, có thể đặt lồng dưới gốc cây có bóng mát ngoài vườn, đầu nhà, có mái che chống được mưa, nắng, gió lùa. Không nên đặt lồng thỏ trong chuồng lợn hoặc chuồng gà, vừa ngột ngạt, hôi thối, vừa dễ lây lan dịch bệnh

4. Vấn đề vệ sinh phòng trị bệnh

Thỏ là loài gia súc yếu, sức đề kháng cơ thể kém, dễ cảm nhiễm các mầm bệnh và phát triển thành dịch. Để hạn chế tối đa tổn thất kinh tế do dịch bệnh, điều rất quan trọng trong chăn nuôi thỏ là tạo ra môi trường tiểu khí hậu chuồng nuôi hợp vệ sinh và tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Cụ thể, hàng ngày cần làm vệ sinh lồng nuôi, chuồng nuôi; định kỳ sát trùng lồng, chuồng, máng ăn, máng uống, ổ đẻ; cần cung cấp cho thỏ đầy đủ thức ăn và nuớc uống sạch sẽ, chất lượng tốt.

Các bệnh thỏ thường mắc là bệnh bại huyết, bệnh ghẻ, bệnh cầu trùng ..v..v. Cách sử dụng các loại thuốc để phòng trị các bệnh này như sau:

- Đối với bệnh bại huyết:

Tiêm vắc xin để phòng bệnh bại huyết cho thỏ con lúc 2 tháng tuổi. Đối với thỏ sinh sản, tiêm định kỳ 6 tháng 1 lần.

- Đối với bệnh ghẻ:

Điều trị: dùng Ivermectin 0,7 ml/3kg thể trọng hoặc dùng Dextomax 0,1 ml/3kg thể trọng.

- Đối với bệnh cầu trùng:

Phòng bệnh: vệ sinh, sát trùng chuồng trại. Sử dụng thuốc Anticoc, HanE3 bằng 1/2liều điều trị.

Điều trị bệnh: thuốc Anticoc, HanE3: 0,1-0,2g/kg thể trọng.

PQQ - TTKNQG

Kỹ thuật nuôi dế

Mỗi ngày lấy khay đẻ trứng ra 1 lần và đưa khay mới vào để nhân trứng cho hôm sau. Khi đưa khay trứng vào hộp ấp (hộp nhỏ như hộp đựng mì tôm), cần chuẩn bị khăn bông thấm nước (loại khăn rửa mặt trẻ em, cỡ 10 x 10 cm), 1 cái đặt dưới đáy hộp ấp để khay trứng đè lên và 1 cái phủ trên mặt khay. Sau đó đậy nắp hộp lại, để trong thùng nuôi có che xung quanh.

Ảnh minh họa

1. Dụng cụ nuôi

Có thể tận dụng các thùng nhựa, chum, vại có đường kính từ 20 - 50 cm để nuôi dế. Sử dụng bìa cứng, phên tre hoặc tấm ván mỏng… khoét một lỗ ở giữa với đường kính 3 - 4 cm làm nắp đậy thùng nuôi.

Dụng cụ nuôi dế cần được vệ sinh sạch sẽ và xông hơi fóc-môn khử trùng trước khi nuôi.

Khay cho dế đẻ có thể làm khay chuyên dùng bằng gỗ như khuôn gói bánh chưng hình vuông cỡ 5 cm, cao 2 cm. Trong khay đẻ để một ít đất ẩm tơi, lượng đất ẩm trong khay dày khoảng 1,5 cm.

2. Kỹ thuật ấp trứng

Mỗi ngày lấy khay đẻ trứng ra 1 lần và đưa khay mới vào để nhân trứng cho hôm sau. Khi đưa khay trứng vào hộp ấp (hộp nhỏ như hộp đựng mì tôm), cần chuẩn bị khăn bông thấm nước (loại khăn rửa mặt trẻ em, cỡ 10 x 10 cm), 1 cái đặt dưới đáy hộp ấp để khay trứng đè lên và 1 cái phủ trên mặt khay. Sau đó đậy nắp hộp lại, để trong thùng nuôi có che xung quanh.

Nhiệt độ thích hợp cho ấp trứng dế từ 22 - 26oC. Cứ 3 - 4 ngày thay khăn ướt 1 lần. Sau 9 - 10 ngày, trứng bắt đầu nở. Khi trứng đã nở hết (vào ngày thứ 11) thì lấy khay ra, đưa dế con vào thùng nuôi.

3. Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng

Thức ăn cho dế là các loại cỏ hoà thảo tự nhiên và cám hỗn hợp.

Ban đầu dế con ăn ít, cần cho ăn cỏ non và bột cám tổng hợp có 17 - 21% chất đạm (tương đương cám úm gia cầm). Bột cám tổng hợp được để vào đĩa nhỏ với số lượng bằng 3% trọng lượng dế.

Cỏ cho dế ăn cần được rửa sạch. Nếu cỏ được chuẩn bị từ trước đã ráo nước thì cần phun nước cho cỏ hơi ướt rồi bó thành từng bó nhỏ cỡ bằng nắm tay (0,1 - 0,2 kg/bó) để trong thùng nuôi cho dế ăn và leo trèo. 
Cho dế ăn theo bữa, mỗi bữa cách nhau khoảng 4 - 6 giờ, chú ý vệ sinh thùng nuôi, bỏ cỏ cũ ra, đưa cỏ mới vào.

Cho dế uống nước bằng cách phun ướt cỏ non rồi đưa vào thùng nuôi, khi dế lớn có thể phun nước vào thành dụng cụ nuôi để cho uống.

Khi dế lớn cần san bớt đàn sang thùng mới, tránh mật độ nuôi quá dày.

Tỷ lệ ghép đôi giao phối là 1 đực : 1,5 - 2 cái. Mật độ nuôi là 30 – 40 con/m2

4. Địch hại

Địch hại của dế là chuột và kiến. Đề phòng kiến bằng cách tạo các rãnh nước xung quanh khu vực nuôi (đối với quy mô chăn nuôi lớn). Nếu nuôi ít có thể đặt các thùng nuôi trên giá đỡ có chân ngâm trong bát nước.

Nguyễn Quốc Tuấn (theo tờ tin KNVN 27/2010)