Friday, August 3, 2007

Nuôi và sản xuất giống ếch công nghiệp

Trong thời gian gần đây, nuôi ếch công nghiệp đã phát triển rất nhanh với nhiều hình thức nuôi như nuôi trong hồ xi măng, phủ bạt, nuôi trong ao đất, vèo lưới, … Do giống ếch được nhân giống nhân tạo, chi phí đầu tư thấp, có nhiều quy mô và loại hình cho nông dân lựa chọn. Nên nuôi ếch công nghiệp có tiềm năng phát triển lớn và đóng vai trò quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp, đáp ứng một phần nhu cầu thực phẩm và chế biến xuất khẩu thực phẩm. Nhằm cung cấp cho bà con nông dân và bạn đọc những hiểu biết cần thiết cho nghề nuôi ếch công nghiệp, website Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xin giới thiệu “Cẩm nang nuôi và sản xuất giống ếch công nghiệp” do Trung tâm Khuyến nông thành phố Hồ Chí Minh biên soạn và phát hành

Ảnh minh họa

Phần I: Đặc điểm sinh học

Ếch công nghiệp (Ếch Thái Lan) có tên khoa học là Rana tigrina, kích cỡ lớn (200 - 400 g/con), ăn mồi tĩnh và thích nghi điều kiện nuôi nhốt với mật độ cao. 

1.1. Môi trường sống:

- Ếch công nghiệp sống trong môi trường nước sạch, không ô nhiễm. Có thể sử dụng nước giếng, nước sông hay nước ao hồ để nuôi ếch với điều kiện độ mặn không quá 5‰,  pH nước trong khoảng 6,5 - 8,5, nhiệt độ nước tốt nhất 28 - 300C.  

- Ếch thích nơi yên tĩnh, ít người qua lại, sợ rắn, chim, chuột, đặc biệt rất nhạy cảm với kim loại nặng, tàn thuốc lá và các chất độc khác.

1.2. Dinh dưỡng và thức ăn của ếch: 

- Nhu cầu dinh dưỡng của ếch khá cao, độ đạm từ 25 - 40%.   

- Giống như ếch đồng hoang dã, ếch công nghiệp cũng thích ăn mồi động vật sống, di động như các loài côn trùng, giun, ốc… Tuy nhiên, do đã được thuần hóa nên ếch công nghiệp sử dụng được thức ăn tĩnh như thức ăn viên nổi hay thức ăn tự chế biến (cá tạp băm nhỏ, cám nấu, …).

1.3. Sinh trưởng:

Ếch công nghiệp là loài lưỡng cư, chu kỳ sống có ba giai đoạn:

- Nòng nọc (từ khi nở đến khi mọc đủ 4 chân): Khoảng 21 - 28 ngày, giai đoạn này sống hoàn toàn trong môi trường nước. Ăn các loài động vật phù du có trong môi trường nước nuôi hoặc thức ăn bổ sung như bo bo, trùn chỉ, cám nhuyễn.

- Ếch giống (2 - 50 g): Thích sống trên cạn gần nơi có nước, ăn thức ăn tự nhiên: côn trùng, cá nhỏ, giun, ốc và đã sử dụng được thức ăn viên. Ở giai đoạn này ếch ăn thịt lẫn nhau khi thiếu thức ăn hoặc thức ăn không đủ đạm.     

- Ếch trưởng thành (200 – 300g): Từ 8 - 10 tháng tuổi, ếch đã trưởng thành và có thể thành thục sinh sản.  

1.4. Sinh sản:

- Mùa vụ sinh sản chính là vào mùa mưa (tháng 5 - 11). Số lượng trứng một lần sinh sản từ 1.000 - 4.000 trứng/ếch cái và ếch có thể đẻ 3 - 4 lần trong năm, thời gian tái thành thục của ếch cái từ 3 - 4 tuần.

- Trứng ếch rời, có kích thước lớn và bám vào giá thể. Trứng nở ra nòng nọc sau 18 - 24 giờ. Nòng nọc sau 48 giờ bắt đầu ăn thức ăn ngoài. Thời gian biến thái từ nòng nọc mới nở thành ếch con khoảng 28 - 30 ngày.

Phần II: Kỹ thuật nuôi ếch công nghiệp

2.1. Nuôi ếch trong hồ xi măng

2.1.1. Chuẩn bị hồ nuôi

- Hồ sau khi xây hoặc sửa xong phải tẩy rửa chất xi măng trong hồ bằng cách ngâm nước và xả bỏ nhiều lần (có thể dùng thân cây chuối chặt nhỏ cho vào hồ ngâm 1 tuần rồi xả bỏ sẽ nhanh sạch chất xi măng hơn). Sau khi ngâm tẩy chất xi măng khoảng 3 - 4 tuần, kiểm tra độ pH nước trong hồ đạt từ 6,5 - 7,0 là thả ếch vào nuôi được.

- Vệ sinh, chà rửa hồ sạch sẽ, khử trùng bằng Chlorine hoặc thuốc tím trước khi thả ếch vào nuôi.

- Cho nước vào từ 20 - 30 cm (chỗ sâu nhất khoảng 30 cm).

- Chuẩn bị hệ thống sàn ăn, bè nổi cho ếch lên ăn mồi, nghỉ ngơi.

- Thiết kế hệ thống cấp thoát nước bằng ống nhựa PVC.

- Thiết kế hệ thống lưới che chắn, bảo vệ ếch.

2.1.2. Chọn  ếch giống

- Qui cách giống: Chọn ếch cỡ 45 ngày tuổi (khoảng 3 - 6 cm/con), khỏe mạnh, màu sắc đậm, không nhiễm bệnh hay bị dị tật.

- Chọn ếch giống sản xuất tại chỗ có chất lượng tốt để nuôi thương phẩm.

2.1.3. Thả giống

- Kiểm tra lại môi trường nước trước khi thả giống (pH, nhiệt độ).

- Thời gian thả: lúc trời mát (sáng hoặc chiều).

- Cho thùng ếch vào hồ, tưới nước của hồ nuôi lên ếch để ếch từ từ quen dần với môi trường nước mới rồi mới thả ra hồ nuôi. 

- Mật độ thả nuôi: 80 - 100 con/m2.

- Khử trùng ếch bằng thuốc tím trước khi thả nuôi. 

2.1.4. Chọn thức ăn cung cấp cho ếch

- Qui cách - chủng loại: Chọn thức ăn công nghiệp dạng viên như Cargill,...  có độ đạm cao (25 - 40%). Ngoài ra, có thể cho ăn bổ sung thêm thức ăn tự nhiên (ốc bươu vàng, trùn quế,...).

- Chất lượng: Thức ăn không bị ôi thiu, ẩm mốc, có mùi vị hấp dẫn. 

- Thức ăn cung cấp cho ếch thích hợp cho từng giai đoạn phát triển (kích cỡ, độ đạm, khối lượng).

2.1.5. Cho ăn

- Chọn loại thức ăn có kích cỡ và độ đạm phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ếch (cỡ 0,5 - 4,5 mm, độ đạm từ 25 - 40%).

- Thức ăn được rưới nước có pha thuốc khoảng 15 - 20 phút trước khi cho ăn. Nếu sử dụng thức ăn tươi sống phải rửa sạch hoặc khử trùng trước khi cho ăn. 

- Cho ăn bằng cách rải thức ăn trực tiếp vào hồ (đối với thức ăn viên) và để lên sàn ăn (đối với thức ăn chế biến). 

- Lượng thức ăn cho ăn căn cứ theo ước tính % trọng lượng đàn ếch và theo thực tế kiểm tra trên sàn ăn. Tháng đầu cho ăn 4 - 6% trọng lượng đàn ếch, 2 tháng sau giảm còn 3 - 4%

- Thời gian cho ăn: Tháng đầu cho ăn 3 - 4 lần/ngày (sáng, trưa, chiều, tối), khi lớn cho ăn 2 - 3 lần/ngày vào buổi sáng và chiều mát, cho ếch ăn thêm vào buổi tối để ếch tăng trọng nhanh.

 -  Tốc độ tăng trưởng: 
   
        30 ngày nuôi           30 - 50 g
        60 ngày nuôi         100 - 120 g 
        90 ngày nuôi         150 - 180 g 
        120 ngày nuôi       200 - 250 g 

2.1.6. Chăm sóc - quản lý nguồn nước và phòng bệnh

* Chế độ thay nước 

- Tháng đầu ít thay nước, 2 - 3 ngày thay nước một lần, mực nước duy trì ở mức 20 - 30 cm.

 - Tháng thứ hai trở đi thay nước mỗi ngày, mực nước có thể giảm xuống còn  10 - 15 cm.

- Nước giếng khoan được bơm lên trữ lại ít nhất một ngày mới sử dụng, không bơm trực tiếp vào hồ ếch.

- Thời gian thay nước thích hợp nhất là vào buổi sáng, nếu thay vào buổi chiều thì phải thay trước khi cho ếch ăn.

* Phân cỡ

Hàng ngày kết hợp với việc cho ăn và thay nước là việc tách đàn, phân cỡ ếch. Thông thường là phân thành hai cỡ lớn và nhỏ tương đối đều nhau. Việc phân cỡ càng kỹ thì ếch ít có cơ hội ăn thịt lẫn nhau, giảm tỷ lệ hao hụt đáng kể.

* Chăm sóc

- Kiểm tra quan sát thường xuyên các hoạt động của ếch để phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp bị bệnh. Trường hợp ếch bị bệnh phải tách riêng ra khỏi hồ để điều trị.

- Thường xuyên bổ sung vitamin, thuốc bổ, men tiêu hóa, thuốc kháng sinh liều nhẹ vào khẩu phần ăn để tăng sức đề kháng và phòng bệnh cho ếch.

- Mỗi tuần nên ngâm tắm ếch một lần bằng thuốc sát trùng (thuốc tím, Iodine, Gansil).

- Kiểm tra thường xuyên các hệ thống cấp thoát nước, lưới bảo vệ đề phòng thất thoát ếch.

- Cần tránh không cho nước mưa vào hồ nhiều làm cho độ pH và nhiệt độ nước trong hồ nuôi giảm đột ngột gây sốc cho ếch, nhất là giai đoạn ếch còn nhỏ sẽ bị hao hụt rất nhiều. 

- Định kỳ khoảng 2 tuần cân ếch một lần để kiểm tra mức tăng trọng và trọng lượng trung bình cả đàn. Từ đó có cơ sở điều chỉnh chế độ cho ăn và chăm sóc hợp lý.

2.1.7.  Thu hoạch

Sau 3 - 3,5 tháng nuôi ếch đạt trọng lượng trung bình 200 g/con, có thể thu hoạch toàn bộ. 

2.2. Nuôi ếch trong ao đất 

Thích hợp vùng ven đô thị hay nông thôn có diện tích đất khá lớn.

2.2.1. Chuẩn bị ao 

- Ao diện tích từ 30 - 300 m2  (4 x 8 m, 5 x10 m, 10 x 20 m…), phủ bạt nilông nếu ao không giữ nước. Thông thường mô hình này được thiết kế theo dạng ao nổi hoặc nửa nổi nửa chìm.

- Có thể xây tường gạch hoặc dùng lưới, tôn fibro xi măng, phên tre rào chung quanh ao cao 1,0 - 1,2 m  để tránh ếch nhảy ra ngoài. 

- Mực nước ao 20 - 30 cm, có ống thoát nước tránh chảy tràn. Nên đặt ống cấp và thoát nước riêng biệt ở hai bờ đối diện nhau theo chiều dài của ao.

- Tạo giá thể cho ếch lên cạn ở (bè tre, gỗ, tấm mouse xốp…). Nên thả lục bình hay rau muống làm nơi cư trú cho ếch. Diện tích giá thể 50 - 70% diện tích ao nuôi. Nếu ao có diện tích rộng khoảng vài trăm m2 thì xung quanh nên chừa bờ rộng từ 1,0 - 1,5 m, cao hơn mực nước trong ao khoảng 20 cm, trên đó trồng cây che mát để ếch lên ở.  

2.2.2. Mật độ nuôi 

Ếch giống nên thả thưa hơn nuôi trong bể xi măng (60 - 80 con/m2 là tối ưu trong tháng đầu), nên thả giống loại lớn (100 - 120 con/kg) và tương đối đồng đều để hạn chế hiện tượng ăn lẫn nhau, có thể phân cỡ ương dưỡng trước trên hồ xi măng rồi mới thả xuống ao nuôi.  

2.2.3. Cho ăn - Chăm sóc

- Cho ăn thức ăn viên nổi hoặc thức ăn tự chế biến, giai đoạn ếch giống cho ăn 3 - 4 lần/ngày2 - 3 lần/ngày đối với ếch lớn (100 g trở lên). Thức ăn thả trực tiếp trên giá thể hay trên chỗ cạn cố định trong ao. Lượng thức ăn trong ngày cũng giống như nuôi trong bể xi măng và tùy vào sức ăn thực tế của ếch.

- Thường xuyên thay nước tránh để nước dơ, ếch dễ nhiễm bệnh (2 - 3 ngày/1 lần). Chỉ thay 1/3 lượng nước trong ao.

- Định kỳ xử lý nước trong ao bằng Zeolite, Calci – 100 để ổn định pH, làm sạch môi trường nước và đáy ao. 

- Chú ý kiểm tra, canh phòng thường xuyên các loài địch hại vào ăn ếch (chim, chuột, rắn, mèo, cá dữ…).

- Nuôi ếch trong ao đất lớn nhanh và ít tốn công chăm sóc hơn nuôi trong bể xi măng, chi phí đầu tư thấp hơn nhưng có nhược điểm:

+ Tỷ lệ sống thấp hơn nuôi trong bể xi măng do khó kiểm soát được bệnh, địch hại và lựa ếch vượt đàn.   

+ Nếu bờ ao không chắc chắn, bị rò rỉ, ếch đào hang để trú ẩn ít ra ăn mồi nên chậm lớn. 

2.3. Nuôi ếch trong giai hay đăng quầng  

Thích hợp vùng có ao hồ lớn có thể vừa nuôi ếch kết hợp nuôi cá. 

2.3.1. Nuôi trong giai (vèo)

- Giai có kích thước 6 - 50 m2 (2 x 3, 4 x 5, 5 x 10 m), cao 1 - 1,2 m, làm bằng lưới nilông may kín 5 mặt và phía trên có nắp đậy để tránh ếch nhảy ra ngoài và đề phòng địch hại. 

- Giai treo trong ao sao cho đáy vèo ngập nước ngập khoảng 20 - 30 cm.

- Tạo giá thể cho ếch lên cạn cư trú (tấm nilông đục lỗ, bè tre, lục bình…). Tổng diện tích giá thể chiếm 2/3 - 3/4 diện tích giai. Có thể đặt những tấm xốp phía mặt dưới của đáy để giai nổi lên làm nơi cho ếch lên nghỉ ngơi, tắm nắng và ăn mồi. 

- Mật độ nuôi trong giai tương đương nuôi trong hồ xi măng là 80 - 100 con/m2

- Cho ăn cũng giống như cho ăn trên hồ xi măng: rải thẳng vào giai hoặc để trên những miếng nổi (thường áp dụng cho thức ăn tự chế biến).

- Định kỳ xử lý nước trong ao bằng Zeolite, Calci – 100 để ổn định pH, làm sạch môi trường nước và đáy ao. 

- Chú ý kiểm tra, canh phòng thường xuyên các loài địch hại vào ăn ếch (chuột, rắn, cá dữ…).

2.3.2. Nuôi trong đăng quầng 

- Đăng quầng có kích thước lớn hơn giai (100 - 500 m2), dùng lưới nilông hay đăng tre bao quanh một phần diện tích trong ao, bên dưới không có đáy như giai. 

- Mật độ nuôi trong đăng quầng (20 - 40 con/m2).

- Thả lục bình, bè tre, nilông nổi để làm nơi ếch lên cạn cư trú, diện tích giá thể chiếm 3/4 diện tích đăng quầng. 

- Chế độ cho ăn, chăm sóc và quản lý nguồn nước giống như nuôi trong giai.

2.4. Phòng và trị một số bệnh thường gặp

2.4.1. Bệnh trướng hơi ở ếch con 

- Nguyên nhân: Ếch bị sốc do môi trường nước thay đổi nhiều và đột ngột, hoặc do ăn nhiều thức ăn không tiêu  hóa hết.

- Cách phòng trị: Hạn chế thay nước, khi thay nước chỉ thay 1/3 lượng nước trong hồ. Bổ sung men tiêu hóa vào thức ăn cho ếch ăn. Nên chọn mua ếch giống từ trại giống có môi trường nước giống với môi trường nước mình nuôi để tránh hiện tượng ếch bị sốc do thay đổi môi trường.   

2.4.2. Bệnh ghẻ lở

- Nguyên nhân: Do ếch cắn lẫn nhau hoặc do ếch nhảy cọ sát với thành hồ bị trầy xước. Vết thương nhiễm trùng gây ghẻ lở.

- Cách phòng trị: Hạn chế tiếng động và bóng người lui tới làm ếch hoảng sợ, tách cỡ thường xuyên để con lớn không cắn con nhỏ, cho ăn bằng sàn ăn để hạn chế ếch táp trúng chân nhau. Tách riêng những con bị ghẻ ra bôi thuốc kháng sinh và ngâm tắm thuốc sát trùng sau vài ngày sẽ lành vết thương.

2.4.3. Bệnh đỏ chân 

- Nguyên nhân: Do môi trường nước nuôi bị nhiễm khuẩn làm cho hai bên đùi của ếch nổi nhiều vết đỏ, chân sưng to, bụng bị xuất huyết trong, gan sưng và đọng máu. 

- Cách phòng trị: Giữ cho môi trường nước sạch sẽ, không nuôi quá dày, nên lắng lọc nước một ngày trước khi sử dụng. Khi ếch bệnh tách riêng ra ngâm trong thuốc tím, đồng thời trộn thuốc kháng sinh (Enro floxacin hoặc Oxytetracylin) vào thức ăn cho ếch ăn liên tục trong 7 - 10 ngày

2.4.4. Bệnh viêm ruột

- Triệu chứng: Ếch bị bệnh có ruột và mỡ thoát ra ở lỗ hậu môn, ruột bị sưng đỏ, mỏng, bên trong có khi có dịch lỏng trong suốt và lẫn cặn thức ăn không tiêu, thối.

- Cách phòng trị: Trộn xen kẽ men tiêu hóa và thuốc kháng sinh vào thức ăn cho ếch ăn liên tục trong 4 - 5 ngày. Liều lượng: 5 g thuốc/kg thức ăn.

2.4.5. Bệnh do ảnh hưởng hệ thần kinh 

- Triệu chứng: Cột sống bị cong lại, đầu lệnh sang một bên, bơi lội xoay vòng tròn. 

- Cách phòng trị: Phòng bệnh bằng cách vệ sinh hồ sạch sẽ, tránh các tác nhân gây sốc (tiếng ồn, cường độ ánh sáng cao, nhiệt độ nước…), thường xuyên bổ sung thuốc bổ thần kinh (có chứa nhóm vitamin B6), vitamin C vào thức ăn cho ếch ăn.

Phần III: Kỹ thuật sản xuất ếch giống

3.1. Tuyển chọn và nuôi vỗ ếch bố mẹ

Thường lựa chọn một số con ếch tốt từ ao ếch thịt để nuôi vỗ cho sinh sản. Ếch một tuổi đã bắt đầu tham gia sinh sản, ếch loại 2 - 3 tuổi sẽ có chất lượng sinh sản tốt hơn: thu được số lượng nhiều hơn, trứng to, nở con mập mạp, có sức sống mạnh, nuôi mau lớn.

Con cái đẻ năm thứ nhất được 2.500 - 3.000 trứng (đẻ 2 đợt/năm). Nhưng con cái 3 - 4 tuổi đẻ 2 đợt trong năm đến 4.000 - 5.000 trứng. Ếch đẻ đợt 2 cách đợt đầu khoảng 3 tuần lễ. Ấp nhân tạo có thể đạt tỷ lệ nở 90%.

- Ếch sinh sản có thể nuôi chung đực, cái trong một ao, vườn. Song nếu có diện tích rộng thì nuôi riêng ra 2 ngăn (thời gian nuôi riêng khoảng 1 tháng trước khi đẻ). Khi cho ếch đẻ, thả ếch đực vào hồ trước, đến chập tối mới thả ếch cái vào và phun mưa nhân tạo để kích thích ếch bắt cặp, sinh sản.

- Mật độ cho đẻ 5 cặp/m2.

- Chế độ nuôi vỗ nên tăng tỷ lệ đạm động vật trong thức ăn, chẳng hạn 40% cá xay + 60% bột ngũ cốc hoặc thức ăn viên có độ đạm 25%.

Việc chăm sóc, quản lý giống trong giai đoạn này như nuôi ếch thịt.

3.2. Cho ếch đẻ

Hàng năm vào dịp tết Thanh minh (ngày 3 tháng 3 Âm lịch) ếch cái phát dục có bụng phình to và mềm. Khi đã có tiếng kêu thưa thớt của ếch đực báo hiệu thì 3 - 4 ngày sau ếch sẵn sàng đẻ. Nếu gặp được trời mưa hoặc ta chủ động bơm nước mới vào mương ao, thì đêm hôm đó ếch đực kêu vang mời gọi ếch cái đến cặp đôi, ôm lấy nhau đẻ trứng và thụ tinh sát mép nước. Trứng trôi xuống nước nổi thành từng đám tròn có màng nhầy liên kết. Đầu đen của trứng (cực động vật) xoay lên phía trên để nhận ánh sáng.

3.3. Ương trứng 

- Ương ngay trong ao: Ao phải mới được tát dọn sạch sẽ, nước ao không nhiễm bẩn thì có thể để nguyên các ổ trứng trong ao, mương, cho nở tự nhiên. Ương cách này giảm được công vớt trứng và không sợ sự va chạm làm vỡ trứng. Ương trong ao, nòng nọc sẽ có nguồn thức ăn tự nhiên (động vật phù du), nhưng sẽ không tránh khỏi sự hao hụt do các sinh vật khác sát hại. Khoảng nửa tháng sau thì vớt nòng nọc về ương trong bể, ao riêng. Hàng ngày cho nòng nọc ăn thêm bột mì, bột gạo rắc xuống ven bờ ao. Số lượng 200-300 g/10.000 con trong ngày. Hoặc sử dụng thức ăn viên cho cá giống (độ đạm 40%); trùn chỉ.

- Ương trong giai hoặc bể: Ương trong giai hoặc bể có lợi là gom được các ổ trứng ếch đẻ rải rác ở ao, rãnh trong vườn về tập trung một chổ, dễ dàng quản lý, chăm sóc, hạn chế được sự hao hụt do sinh vật khác giết hại. 

+ Sử dụng giai chứa cá bột may bằng lưới nilông. Cắm cọc xuống ao cách bờ 1 m để buộc giai (tựa như chiếc mùng lật ngược). Đảm bảo nước ao thoáng, sạch. 

+ Hoặc dùng gạch xếp thành hình chữ nhật có kích thước 1,0 m x 0,8 m x 0,3 m. Bên trong lót tấm nilông. Đổ nước sâu 20 cm để ương trứng.

- Cách vớt trứng

Ếch đẻ ban đêm, buổi sáng sớm đi vớt trứng ngay, nếu để lâu, trứng trương nước vớt dễ vỡ. 

Dùng đĩa hoặc chậu nhỏ hớt nguyên cả mảng trứng rồi đỗ nhẹ nhàng vào một chậu to đựng mấy lít nước. Khi trứng đã kín chậu thì chuyển về bể hoặc giai rồi đi vớt mẻ khác. Không để các mảng trứng chồng lên nhau dày đặc và vón cục, trứng sẽ ung.

- Mật độ ương: (trong giai hoặc bể) 10.000 - 30.000 trứng/m2. Nhiệt độ nước thích hợp 25 - 300Cthì sau 18 - 24 giờ trứng nở thành nòng nọc. 

Nếu để nhiệt độ nước nóng tới 34 - 360C, nòng nọc sẽ chết.

3.4. Nuôi nòng nọc từ khi mới nở đến 7 ngày tuổi

Sau khi trứng nở, nòng nọc còn yếu ớt, lắng xuống đáy bể (hoặc đáy giai) 3 giờ sau mới ngoi lên thở và bám quanh thành bể.

- Ương trong bể khi trứng nở hết phải vớt hết vỏ trứng và màng nhớt lắng dưới đáy rồi thay nước bể. Thay bằng nước giếng hoặc nước ao trong sạch.

- Ba ngày đầu nòng nọc sống nhờ chất noãn hoàn dự trữ trong cơ thể (cũng giống như cá bột).

- Từ ngày thứ tư nòng nọc đã có thể ăn được các động vật phù du cỡ nhỏ ở trong nước. Nhưng ương trong bể lại dùng nước giếng không có sinh vật phù du nên ta phải cho ăn lòng đỏ trứng: Trứng vịt luộc lấy lòng đỏ bóp nhuyễn rắc đều xung quanh bể. Cứ 10.000 con, cho ăn ngày 4 quả chia 2 bữa sáng và chiều. Khi nòng nọc ăn mạnh thì cho tăng số trứng.

- Định kỳ thay nước ngày 1 lần; thay nước trước khi cho ăn; và nâng mực nước lên cao dần. Mỗi lần thay 2/3 lượng nước cũ. 

- Nếu ương trong giai cũng có thể cho ăn như trên, hoặc thức ăn viên nhỏ (độ đạm 40%). Hàng ngày lấy tay nhẹ nhàng té nước xung quanh giai cho nước được thông thoáng.

3.5. Ương nòng nọc từ 8 ngày tuổi lên ếch giống

- Ngày thứ 8: Chuyển nòng nọc từ bể (hoặc giai) ra ao ương rộng rãi hơn. Nếu để lâu trong bể ương, nòng nọc sống chật chội sẽ chậm lớn và thường tranh ăn, cắn đuôi nhau gây tử vong.

Nếu trứng tự nhiên trong ao thì sau 45 ngày mới cần chuyển sang ao ương riêng.

Ao ương lúc này có diện tích vài chục mét vuông trở lên. Chiều cao nước 0,5 - 1 m. Bờ ao được xây cao để giữ ếch giống.

Ao được tát dọn, tẩy vôi và bón phân hữu cơ trước đó mấy ngày để trừ địch hại và gây sinh vật phù du làm thức ăn cho nòng nọc.

Mật độ thả 2.000 – 3.000 con/m2.

Cho ăn bổ sung thức ăn tổng hợp: Tỷ lệ 70 - 80% bột ngũ cốc (ngô, cám, gạo) và 20 - 30% đạm động vật. Tất cả được nấu chín nhuyễn. Nếu là cám gạo không được lẫn bổi, nòng nọc ăn khó tiêu, trướng bụng.

Lượng thức ăn hàng ngày 0,5 - 1 kg/10.000 con. Rắc thức ăn xung quanh ao, nòng nọc thường bơi lội gần bờ.

- Ngày thứ 15 - 21: Nòng nọc bắt đầu mọc 2 chân sau. Lúc này phải tăng cường theo dõi sự biến thái của nòng nọc, bảo đảm môi trường nước, trừ địch hại và điều chỉnh lượng thức ăn cho thích hợp.

Nếu mật độ dày cần san bớt sang ao khác (500 - 1.000 con/m2). 

Ngày thứ 27 - 30: Nòng nọc mọc tiếp 2 chân trước và phải ngoi lên mặt nước để thở vì mang đang thoái hóa và phổi đang hình thành thay thế dần.

Thả bèo tây xuống 1/2 mặt ao và thả thêm tấm ván nổi quanh mép nước làm bè cho nòng nọc.

Trong thời gian nòng nọc mọc chân, ta giảm đi 1/3 lượng thức ăn tinh vì chúng sử dụng chất dinh dưỡng ở đuôi cho đến khi đuôi tiêu biến hết và thành chú ếch con leo lên ngồi trên bèo, các tấm ván nổi và quanh mép nước. Hãy cho ếch ăn ngay.

Cho ếch ăn bằng thức ăn viên nổi của cá giống (độ đạm 40%).

Ngày cho ăn 2 - 4 lần sáng, trưa, chiều và tối. Lượng thức ăn 7 - 10% trọng lượng thân ếch; 1 kg thức ăn cho 1.000 con/ngày. Cho ăn đúng giờ vào những địa điểm cố định. Thường xuyên quan sát khả năng ăn của ếch để điều chỉnh. Vệ sinh các mâm ăn của ếch trước khi cho ăn.

- Ngày thứ 45 - 50: Ta đã có ếch con đạt cỡ 100 - 200 con/kg, có thể thu hoạch bán giống rồi làm vệ sinh ao ương để tiếp tục ương giống đợt 2.

Theo Sở NN&PTNT TP.HCM

Wednesday, April 4, 2007

Nuôi cá điêu hồng (Rô phi đỏ)

Tên “Điêu hồng” được dịch từ tiếng Trung Quốc để chỉ một loài cá thuộc họ cá tráp ở biển (Plectorynchus). Người ta gọi cá rô phi đỏ là “điêu hồng” vì chúng có hình dạng và màu sắc giống nhau.

Ảnh minh họa


I. Xuất xứ cá điêu hồng:

Tên “Điêu hồng” được dịch từ tiếng Trung Quốc để chỉ một loài cá thuộc họ cá tráp ở biển (Plectorynchus). Người ta gọi cá rô phi đỏ là “điêu hồng” vì chúng có hình dạng và màu sắc giống nhau.

Xuất sứ cá rô phi đỏ từ Đài Loan. Năm 1968, người ta phát hiện một số cá bột rô phi cỏ (Oreochromis mosambicus) có màu đỏ, do bị đột biến “bạch tạng” không hoàn toàn. Người ta tiếp tục cho lai O. mosambicus đột biến bạch tạng với loài O. niloticus (rô phi vằn) được thế hệ F1 có 30% là rô phi màu đỏ, những cá thể này có những chấm đen ở hai bên cơ thể gần như đối xứng nhau. Những cá thể F1 đỏ này tiếp tục được sinh sản và đã nâng được tỷ lệ đỏ lên 80%. Dòng cá này có thể đạt 500 – 600 gam hoặc hơn sau 5 tháng nuôi, đạt 1.200 gam trong 18 tháng.

Năm 1975, xuất hiện một cá cái rô phi đỏ có màu sáng và nặng 1.200 gam trong vòng 18 tháng. Cho lai con này với con rô phi đỏ khác thì được 4 nhóm: đỏ, nâu, đen, trắng nhạt. Dòng đỏ và trắng nhạt hoàn toàn không còn chấm đen. Cho dòng đỏ này sinh sản thì có tỷ lệ màu đỏ của F1 cao và màu đỏ rất ổn định. Vì dòng cá này có hình dạng và màu đỏ rất giống cá tráp đỏ ở biển nên mới có tên “Điêu hồng” (tráp đỏ- chính xác phải gọi là 'hồng điêu”)

Người ta còn lai rô phi màu đỏ với dòng O.aureus cho ra được F1 có 65% màu đỏ toàn là đực, 35% màu đen thì có 7 - 8% là cá cái. Cá F1 lớn nhanh nhất là con đực, có thể đạt cở 2 – 3 kg.

Khi lai cá rô phi đỏ với dòng O. urolesis hornorum thì cho ra F1 có 65% đỏ, 35% đen và 100% là cá đực.

Ở Việt Nam, trường Đại học Cần Thơ đã nhập 1 đàn cá rô phi đỏ từ AIT (năm 1990) và thử nghiệm nuôi, nghiên cứu về sinh học, khả năng chịu đựng của rô phi đỏ với độ mặn, pH, nhiệt độ,...

Từ năm 1997, rô phi đỏ được nhập về để nuôi thương phẩm. Hiện nay chúng đã phát triển tốt trong điều kiện khí hậu của ta và là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế.

II. Nuôi cá điêu hồng (Rô phi đỏ – Red Tilapia ) ở một số nước Đông Nam Á:

Như vậy, cá điêu hồng cũng chỉ là cá rô phi có màu đỏ. Sau khi đã có dòng cá rô phi đỏ, người Đài Loan phát triễn mạnh nuôi dòng cá này với cá được sử lý hoặc lai cho cá toàn là đực. Nuôi rô phi đỏ đơn tính đực đã xuất phát từ Đài Loan và đã nuôi ổn định từ những thập niên 80 của thế kỷ trước.

Rô phi đỏ từ Đài Loan đã được du nhập sang nhiều nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á và cũng được phát triển với các hình thức nuôi thâm canh hoặc quảng canh (bảng 1).

Bảng 1: Các nước Đông Nam Á đang nuôi rô phi đỏ.


Ở Đài Loan:

Được coi là đi đầu về nuôi cá rô phi ở khu vực (từ 1946) và đạt sản lượng cao nhất thế giới 80.000 tấn năm 1982. Năm 1999 chỉ còn 57.269 tấn (54 triệu USD), năm 2000 khoảng 50.000 tấn (60 triệu USD) và chiếm 24% sản lượng cá nuôi ở Đài Loan. Diện tích nuôi trên 8.300 ha (2000), có 1921 ha nuôi đơn trong ao, 5830 ha nuôi ghép trong ao.

Về xuất khẩu: 199615.328 tấn, năm 1999 đạt 36.597 tấn và có 71% xuất sang Mỹ.

Phương thức nuôi cá rô phi đỏ ở Đài Loan: nuôi đơn rô phi đỏ trong bể ximent hình bát giác (tám cạnh) 100 m2, với nước tuần hoàn và sục khí. Cỡ cá thả 100 - 200 gam, mật độ 50 - 100 con/ m2. Dùng thức ăn công nghiệp 3 - 4 lần/ ngày. Sau 3 - 4 tháng nuôi thu hoạch được 3 - 4 tấn/ bể, cỡ cá trung bình 600 gam, tỉ lệ sống 90% và hệ số thức ăn 1,2 - 1,4

Ngoài ra còn nuôi trong bè 7 x 7 x 2,5 m, cỡ mắt lưới bao quanh bè 1 cm. Cá thả 20 – 30 gam/ con, mật độ 4.000 - 5.000 con/ bè. Dùng thức ăn viên cho ăn 3 lần một ngày. Cá đạt cỡ thương phẩm 600 gam sau 4 - 5 tháng nuôi. Sản lượng 14,3 – 5,4 tấn/ 2 vòng nuôi một năm.

Tuy sản lượng giảm nhưng sản phẩm rô phi Đài Loan có chất lượng rất cao.

· Nuôi rô phi đỏ ở Indonesia:

Cá rô phi đỏ nuôi ghép với các loài như cá chép, cá mè vinh, tai tượng trong mô hình nuôi kết hợp, cho cá ăn thức ăn hoặc dùng phân bón.

Nuôi cá bè phát triển trên sông, kênh thủy lợi, hồ chứa. Bè có kích thước 7 x 7 x 2 m, thả 100 – 150 kg cá giống, cho cá ăn thức ăn công nghiệp, sau 60 – 120 ngày thu được 626 – 1.200 kg cá cỡ 250 – 300 gam cho một bè nuôi. Với cá đơn tính đực thả 2.500 con/ bè (cỡ cá 50gam, cho ăn thức ăn công nghiệp). Sau 120 ngày thu được 1.000 kg cá/ bè với hệ số thức ăn 1,2.

Nuôi trong ao nước lợ (15%o) điện tích 4.000m2 cỡ cá 3 – 5 cm thả 10.000 con/ ao, cho cá ăn thức ăn công nghiệp. Thu hoạch cá sau 110 ngày đạt cỡ 200 gam năng suất 1,7 – 2 tấn/ ao, tỉ lệ sống 80 – 85%.

· Nuôi cá rô phi đỏ ở Thái Lan:

Thái Lan đã hoàn thiện công nghiệp tạo cá rô phi đơn tính đực và ứng dụng phổ biến trong thập niên 90 thế kỷ trước, từ kỹ thuật của AIT. Có trại sản xuất giống được xây dựng năm 1994, đến nay mỗi năm sản xuất 10 – 20 triệu cá giống đơn tính (99% đực).

Về nuôi: ước tính 80% nuôi trong ao nước ngọt và 20% trong ruộng lúa (cả rô phi đỏ và rô phi vằn). Nuôi ghép với cá khác như chép, mè vinh, mè trắng, mè hoa và một số loài cá bản địa khác.

Nuôi kết hợp trên là chuồng nuôi gà, dưới là ao cá (nuôi thâm canh) khá phát triển và năng xuất tương đối  cao (20-30 tấn/ha). Hiện nay tổng sản lượng cá rô phi của thái Lan khoảng 150 ngàn tấn/ năm (1998: 147.522 tấn).

· Nuôi cá rô phi đỏ ở Malaysia:

Được nhập công nghệ nuôi thâm canh cá rô phi đỏ trong bè từ Singapore trong thập niên 1980.

Cá giống 25 – 125 gam/ con được thả nuôi trong bể ximent tam giác (33 x 14 x 15 m) với 250 – 1.000 kg cá giống / bể. Cho ăn thức ăn công nghiệp và thay nước. Sau 4 tháng nuôi thu hoạch 4 – 6 tấn/ bể, cỡ cá 550 – 750 gam, hệ số thức ăn 1,9 và tỷ lệ sống 84%.

Nuôi thâm canh trong bè đặt trong sông, hồ chứa. Bè kích thước 4 x 3 x 2 m thả 2.000 cá (cỡ 0,7 kg), nuôi sau 2 tháng thì giảm số lượng cá trong bè còn 600 con/ bè, nuôi tiếp 2 tháng để đạt cỡ 1 kg/ con và đưa xuất khẩu. Tỷ lệ sống thường đạt 90%, hệ số thức ăn 1,7.
Ngoài các nước trên, nuôi rô phi đỏ còn phát triển ở các nước như Singapore (trong bè ngoài biển), Myanmar (ao nước ngọt).

III. Sản xuất cá rô phi đỏ:

1. Đặc diểm sinh sản :

Nuôi trong ao, cá thành thục lần đầu ở 4-5 tháng tuổi, khi cá đạt cỡ 300 - 400 gam. Các loài cá rô phi hiện nay đang nuôi phổ biến ở nước ta có cỡ thành thục nhỏ hơn (150 - 200 gam ở cá O.nilotica và 50 - 70 gam ở cá O.mosambicus)

Cá rô phi đỏ có thể đẻ nhiều lần trong năm, từ 10-12 lần và hầu như đẻ quanh năm. Ở Đài loan nuôi trong điều kiện chăm sóc tốt, cá có thể đẻ trên 20 lần trong một năm. Cá trên hoặc dưới một năm tuổi thì đẻ nhiều lứa hơn, dày hơn cá trên 2 năm tuổi trở lên.

Khi sinh sản, cá rô phi đực làm tổ bằng cách dùng đuôi quậy bùn và đào hố dưới đáy ao, đường kính tổ từ 20-30 cm, độ sâu thích hợp 0,3-0,5 m. Sau khi đẻ, cá cái ấp trứng và ngậm con mới nở trong miệng. Ở nhiệt độ 300C, thời gian ấp trứng từ 4-6 ngày và khi cá nở ra vẫn được cá mẹ ngậm trong miệng thêm 3-4 ngày nữa. Khi cá bột đã hết noãn hoàng thì cá con rời khỏi miệng mẹ và bắt đầu tự kiếm ăn. Cá mẹ lại tiếp tục bắt mồi và chuẩn bị cho chu kỳ sinh sản mới. Thời gian giữa 2 lứa đẻ tùy thuộc vào thức ăn, tuổi cá, nhiệt độ… 

Trung bình mỗi lần cá đẻ từ 1.000 - 2.000 trứng, cá cỡ lớn có thể đẻ số lượng trứng nhiều hơn. Vì vậy chúng ta nên chọn cá bố mẹ có thể trọng lớn để nâng cao năng suất sinh sản, cho số lượng cá con nhiều và khoẻ mạnh

2. Sản xuất giống cá rô phi đỏ:

Cá rô phi đỏ có thể tự đẻ trong ao. Ta có thể áp dụng các phương pháp cho cá đẻ và thu cá bột như sau :

- Phương pháp nuôi cá bố mẹ trong ao và cho đẻ tự nhiên: Cá bố mẹ được nuôi trong ao và cho ăn thức ăn đầy đủ, với thức ăn hỗn hợp chế biến hoặc thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm từ 25-28%, khẩu phần ăn 1-1,5%/ngày. Sau khi cá đẻ thì chuyển cá bố mẹ sang ao nuôi vỗ khác để cho đẻ lứa tiếp theo và dùng ao cá đã đẻ làm ao ương cá bột thành cá giống. Cách này dễ áp dụng cho các gia đình để tạo nguồn cá giống thả bù cho các lần đánh tỉa cá thịt. Với cách này thì khó có thể sản xuất được số lượng lớn cá giống để bán.

- Phương pháp thứ hai: Thả cá bố mẹ vào ao để cá đẻ tự nhiên, nuôi vỗ và chăm sóc cá như ở phương pháp trên. Sau khi cá đẻ thì ương nuôi cá bột và thu hoạch cá hương, cá giống đã được ương lớn trong ao. Biện pháp này cũng cho năng suất thấp vì khi ương nhiều thế hệ trong ao, cá bột sẽ hao hụt nhiều do bị cạnh tranh thức ăn và có tình trạng cá ăn thịt lẫn nhau ở các cỡ cá

- Phương pháp thứ ba: Thả cá bố mẹ vào ao đẻ, nuôi vỗ sau khoảng 2 tuần ( ở nhiệt độ trung bình 300C và phương pháp chăm sóc như trên), thì cá bố mẹ sẽ bắt đầu đẻ trứng. Khi cá đẻ xong, dùng vợt vớt hết cá bột chuyển sang ương ở một ao riêng biệt. Lúc này cá bột thường có tập tính bơi quanh bờ ao nên dễ dàng dùng vợt để vớt chúng. Cách thứ ba này tuy năng suất có thể cao hơn nhưng vẫn không thu được hết cá bột trong lứa đẻ

- Phương pháp thứ tư thì chủ động thu trứng hoặc cá bột rô phi để ương ấp nhân tạo. Ta chọn cá bố mẹ có trọng lượng từ 400-500 gam, với tỷ lệ cá đực/ cá cái là 1/1. Cá bố mẹ có thể nuôi vỗ trong ao đất hoặc bể xi măng hay trong giai với mật độ thả từ 4-5 con/m2. Cho ăn đầy đủ chất lượng và khẩu phần để cá thành thục và đẻ tốt. Khi cá bố mẹ đã thành thục và sẵn sàng đẻ trứng thì ta chuyển cá vào giai cho đẻ. Khi cá bố mẹ đã đưa vào giai cho đẻ thì cứ 3-5 ngày thu trứng một lần, tùy theo nhiệt độ nước. Trứng sau khi thu thì được phân chia theo giai đoạn phát triển, làm sạch và ấp riêng từng lứa. Sau khi nở, các lứa tuổi cá bột khác nhau cũng được ương riêng.

3. Kỹ thuật ương nuôi cá giống rô phi đỏ:

3.1. Ương trong ao đất:

Ao được tát cạn, sên vét bớt bùn đáy ao, rải vôi bột 5 - 7 kg/100 m2, bón lót thêm phân hữu cơ ủ hoai (15 - 20kg/100 m2), hoặc phân urê+lân (0,5 kg urê+ 0,3 kg lân/100 m2 ), hoặc bón bằng bột cá (3 - 4 kg/100 m2 ). Sau đó lọc nước vào ao từ từ, từ 3-4 ngày thì đủ mức nước quy định (0,8 - 1,2m), đồng thời các loại thức ăn tự nhiên cho cá sẽ có điều kiện phát triển để cung cấp cho cá bột trong những ngày đầu mới đưa xuống ao ương. Cá bột vớt từ ao cá đẻ và thả vào ao ương, mật độ thả 400 - 500 con/ m2, nên thả vào lúc trời mát, cỡ cá thả nên lựa cùng giai đoạn để cá phát triển đồng đều

Thức ăn cho cá giai đoạn đầu, ngoài thức ăn tự nhiên do gây màu nước bằng phân hữu cơ, vô cơ và bột cá, chúng ta cung cấp thêm cho cá bột như sau :

Tuần lễ đầu: 0,3 kg cám mịn + 0,3 kg bột cá lạt, xay nhuyễn cho 10.000 cá bột

Tuần thứ hai: Thức ăn tăng lên 1,5- 2 lần tùy theo sự tăng trưởng của cá và màu nước của ao. Nếu màu nước xanh lá chuối là màu nước tốt và có nhiều thức ăn tự nhiên cho cá. Nếu màu nước xanh quá đậm hoặc có mùi hôi là quá dư thức ăn, phải điều chỉnh lại cho vừa mức ăn của cá

Từ tuần thứ ba trở đi, phải ước tính số cá giống có trong ao và sức ăn của cá để điều chỉnh thức ăn hàng ngày cho phù hợp, tránh tình trạng thiếu hoặc dư thức ăn gây lãng phí và không hiệu qủa kinh tế. Khẩu phần ăn lúc này từ 2-3% tổng trọng lượng cá có trong ao, với thành phần thức ăn là cám mịn ( hoặc bột mì, bột bắp) và bột cá nhuyễn, tỷ lệ 40% bột cá, 60% cám hoặc bột mì, bột bắp.

Sau 1 tháng, cá có thể đạt cỡ 0,5 - 0,7 gam/con. Ta có thể thu hoạch cá hương và tiếp tục ương thành giống lớn. Khẩu phần ăn từ 2-3% thể trọng cá trong ao, với thành phần thức ăn vẫn là cám và bột cá, tỷ lệ cám 70% và bột cá 30%. Sau 15 - 20 ngày, đạt cỡ cá giống 1,2 - 1,5 gam/con và có thể thả nuôi cá thịt

3.2. Ương trong giai:

Biện pháp này áp dụng cho ương cá có cùng giai đoạn phát triển thì mang lại hiệu quả cao, nhất là ương cá rô phi đơn tính đực. Giai ương cá có kích thước 2x4m, cao 1m, hoặc 3x5m, cao 1m. Giai được đặt trong ao, trong bể xi măng. Mật độ ương từ 1500 - 2500 cá bột/m2 giai . Thức ăn cho cá là bột cá và cám mịn, lượng cho ăn 0,6 kg/10.000 cá bột, tỷ lệ cám và bột cá 4/6. Lượng thức ăn tăng dần hàng tuần theo sự phát triển của cá. Sau 45-50 ngày, cá đạt cỡ giống và đưa nuôi cá thịt

4. Sản xuất giống rô phi đỏ đơn tính đực:

Việc nuôi cá rô phi đơn tính đực sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với nuôi rô phi bình thường, vì:

- Cá cái có một thời gian dài ấp trứng và nuôi con trong miệng nên phải nhịn ăn. Vì vậy khi nuôi chung cá đực cái thì cá đực thường có trọng lượng lớn hơn do ít tốn năng lượng cho quá trình sinh đẻ

- Khi chúng ta nuôi toàn cá đực thì không có sự sinh sản, chúng ta kiểm soát được mật độ cá thả. Người nuôi có thể chủ động quy cỡ thương phẩm tùy theo giá cả thị trường. Nhờ vậy giá trị và hiệu quả kinh tế sẽ được nâng cao

Hiện nay chúng ta đang có 3 phương pháp chính để có cá rô phi đơn tính đực :

- Phương pháp thủ công: dùng mắt thường phân biệt và tách riêng cá đực và  cá cái lúc cá đã phân rõ đực cái bằng phần phụ sinh dục: cá đực có 2 lỗ huyệt, cá cái có 3 lỗ. Cách này dùng cho những ao nuôi nhỏ, có nhiều người cùng làm một lúc. Nhưng hạn chế khi cần có số lượng giống lớn

- Phương pháp di truyền: Bằng phương pháp lai khác loài ( khi nuôi chung cá cái loài này với cá đực loài khác hoặc ngược lại) sẽ tạo được cá lai đơn tính hoặc bất thụ, chẳng hạn:


Người ta còn tạo ra rô phi siêu đực (có nhiễm sắc thể YY), khi thả ghép cá siêu đực với cá cái bình thường sẽ cho ra đàn cá có tỷ lệ đực rất cao ( lý thuyết là 100%)

- Phương pháp hóa sinh : cho cá bột  ăn thức ăn có trộn hormone 17a methyltestosterone ( viết tắt là MT) hoặc 17a ethynyltestosterone (ET) trong 21 ngày tuổi đầu tiên. Rất nhiều nước trên thế giới đã áp dụng công nghệ này. Ở Thái Lan đã phát triển công nghệ từ những thập niên 90, ở Đài Loan từ những năm 80 của thế kỷ 20. Ở nước ta, từ 1993 cũng đã áp dụng chuyển đổi giới tính cá rô phi bằng MT ở nhiều cơ sở sản xuất cá giống

Tóm tắt công nghệ chuyển giới tính cá rô phi toàn đực bằng hormone như sau:


IV. Kỹ thuật nuôi cá rô phi đỏ:

1.   Nuôi đơn bán thâm canh trong ao:

- Chuẩn bị ao:

· Diện tích ao: từ  500 m2 trở lên, sâu 1,5 – 2 m. có cống bộng cấp thoát và chắn lưới, gần nguồn nước, chất lượng nước sạch và không ô nhiễm.

· Khâu chuẩn bị ao để thả cá giống: tát cạn, bắt cá tạp cá dữ, lấp hang hốc cua, rắn, chuột, sên vét bớt bùn đáy, kiểm tra độ cao bờ chắc chắn không bị ngập do lũ hay thủy triều.

Rãi vôi bột 7 – 10 kg/ 100 m2, phơi nắng 1 – 2 ngày. Sau đó lọc nước vào ao đạt mức 1,2 – 1,5 m trở lên.

- Thả cá giống :

· Cỡ cá: 5 – 7 cm (5 – 6 gam/ con), cỡ đồng đều, có thể là cá đơn tính đực.

· Mật độ thả: 30 – 40 con/ m2.

· Thả cá vào lúc sáng sớm, trời mát hoặc chiều tối.

- Thức ăn:

+ Thức ăn chế biến:

Nơi không có điều kiện sử dụng thức ăn viên hoặc có sẵn nguyên liệu chế biến, gồm các nguyên liệu:

+ Cám: 20 – 30%

+ Tấm: 20 – 30%

+ Rau xanh (nghiền nhỏ): 10 – 20%

+ Bột cá (bột ruốc): 30 – 35%

+ Bột đậu nành: 10 – 20%

+ Premix khoáng/ vitamin: 1 – 2%

Phối chế các nguyên liệu để đạt hàm lượng Prôtêin 20 – 25%, trộn đều các nguyên liệu đã nghiền nhỏ, nấu chín rồi ép viên (nếu có điều kiện) hoặc rãi mỏng và phơi se mặt, sau đó cho cá ăn (rải một chổ hoặc để vào sàn ăn), cho ăn 3 – 4 lần/ ngày, khẩu phần 7 – 8%. Hệ số thức ăn từ 3,2 – 3,5 là đạt yêu cầu và có hiệu qủa kinh tế.

+  Thức ăn viên:

Thức ăn viên của các nhà máy chế biến, chọn loại thức ăn có mùi thơm hấp dẫn với cá, hàm lượng đạm 20 – 28%. Cho ăn khẩu phần 3 – 4% trọng lượng thân/ ngày. Hệ số thức ăn của Cargill hay Con Cò  từ 1,4 – 1,6.

- Quản lý chăm sóc:

· Thay nước cho ao thường xuyên. Nếu lợi dụng được thủy triều thì rất kinh tế .

· Lọc cá cho đều cỡ ở tháng thứ 2 –3, loại bỏ những cá còi ốm, nhỏ quá cỡ. Loại bớt cá không đạt cỡ đồng đều.

· Điều chỉnh thức ăn hằng ngày cho hợp lý theo sức ăn và tăng trưởng của cá. Hằng tháng đánh bắt ngẫu nhiên một số cá để kiểm tra tăng trọng (chài, lưới).

· Phòng bệnh: Không cho ăn thức ăn thừa, ôi thiu. Nguồn nước thay phải sạch, không ô nhiễm.

- Thu hoạch:

· Nên thu đồng loạt một lần.

· Thu khi đạt cỡ cá thương phẩm do thị trường yêu cầu.

· Thu khi bán có giá cao nhất.

· Cỡ cá đạt 500 – 600 gam sau 6 tháng nuôi. Nếu lọc lựa cỡ trong tháng trước thì tỉ lệ đồng đều tới 90%.

 2. Nuôi đơn trong lồng bè:

- Có hai cách nuôi rô phi đỏ trong lồng bè:

· Thả nuôi từ cỡ cá giống 5 – 7 cm, liên tục từ 5 – 6 tháng đến khi thu hoạch.

· Thả nuôi cá giống trong ao khi đạt cỡ 20 con/ kg (50 gam/ con) thì thả nuôi trong bè, giai đoạn 1 khoảng 1 tháng, giai đoạn sau khoảng 4 - 5 tháng. Mật độ 200 - 250 con/ m3 bè.

- Thức ăn có thể dùng:

· Thức ăn tự chế biến: phối chế hàm lượng đạm từ 20 – 25%.

· Thức ăn viên: có hàm lượng đạm 20 – 25%.

Thức ăn được trực tiếp rải cho cá ăn 3 – 4 lần/ ngày. Khẩu phần cho ăn 3 – 4% (thức ăn viên), 7 – 8% (thức ăn tự chế biến).

Trong quá trình nuôi nên lọc tách đàn, loại bỏ cá nhỏ, còi cọc, cần có mái che bớt nắng với những bè nhỏ không có nhà và mái che.

 3. Nuôi mô hình kết hợp (gà – cá, cút – cá ,...):

Có thể áp dụng mô hình nuôi này ở những gia đình có chăm nuôi gia cầm. Thái Lan là nước rất phát triển loại hình nuôi kết hợp này với quy mô khá lớn và nuôi thâm canh.

· Ao nuôi có diện tích càng lớn càng tốt. Trên ao có nhà sàn nuôi gà, cút, vịt, . . .  và phân gia cầm trực tiếp đưa xuống ao cho cá ăn.

· Cá giống: Có thể thả từ  cỡ  5 – 7 cm, cá đơn tính đực thì tốt, có thể ghép với một số cá khác như cá hường, mè trắng (10 – 15%).

· Thức ăn: Chủ yếu tận dụng phân gia cầm và thức ăn dư thừa của gia cầm.

Cung cấp thức ăn liên quan đến mật độ nuôi và số lượng gia cầm nuôi. Có thể thả ở mật độ 50 – 60 con/ m2 và phải cho ăn bổ sung thêm thức ăn khi cá lớn và không đủ thức ăn cho chúng.

· Quản lý chăm sóc: Định kỳ thay nước để giữ  không bị ô nhiễm.

· Thu hoạch: Có thể thu hoạch đồng loạt và thả tiếp vụ mới, đánh tỉa thả bù chỉ nên áp dụng ở những ao nhỏ, nuôi tận dụng.

V- Phòng và trị bệnh cá rô phi đỏ:

Các loài rô phi nói chung và cá rô phi đỏ được coi là những loài cá có khả năng chịu đựng giỏi với môi trường xấu và ít bị bệnh, nhất là khi nuôi thưa và quảng canh. Nhưng nkhi nuôi thâm canh với mật độ cao, cho ăn thức ăn đầy đủ thì thấy ác có nhiễm một số bệnh.:

- Bệnh do virus gây ra: do virus Linfoxistis

- Bệnh do vi khuẩn: Fleixibacterioz, Microbacterioz, Edwardlsielloz, Aeromonoz, Streptocorcoz, Pseudomonoz

- Bệnh do nấm : như nấm thủy mi Achylia, Saprolegnia

- Bệnh do ký sinh trùng : Trùng bánh xe Trichodina, trùng quả dưa Ichthyophthirius, sán lá đơn chủ 16 móc Dactylogyrus, sán lá 18 móc Gyrodactylogylus

Ngoài ra còn gặp các thể bệnh không lây như bệnh viêm bong bóng, hiện tượng cá chết ngạt hàng loạt do ao quá dư thức ăn, quá nhiều phân hữu cơ, thực vật phù du phát triển mạnh, nước có màu xanh lục xẫm và có mùi hôi, các bệnh do thiếu dinh dưỡng, thiếu vitamin ( thiếu kẽm gây bệnh đục nhân mắt, thiếu canxi làm cho xương yếu, gây liệt…)

Để phòng trị các bệnh trên, cần chú ý cho cá ăn đầy đủ, làm cá khỏe mạnh, đủ sức chống lại các nguồn bệnh xâm nhập vào cơ thể. Phải giữ cho môi trường ao nuôi sạch, không có các nguồn bệnh xâm nhập vào ao bằng cách thay nước mới thường xuyên hoặc định kỳ.

Theo Sở NN&PTNT TP.HCM